Bác Sĩ Nguyễn Hy Vọng
Ta thường nói "cây
có cội, nước có nguồn".
Nguồn gốc của chúng ta
là ông bà tổ tiên, nguồn gốc của ông bà tổ tiên là nòi giống.
Nòi giống thì một phần
khác nhau ở tiếng nói.
Tiếng nói là một trong
những điều rõ ràng nhất làm cho ta biết đuợc giòng dõi của ta. Nhưng có thật
là ta biết được nguồn gốc tiếng Việt qua những sự kiện khách quan hay là do
thành kiến thông thuờng mà vì quen nghe rồi đâm ra tin là thật?
Từ lâu, ta thường nghe
nói là nòi giống ta bắt nguồn bên Tàu, là một nhánh của nòi giống Tàu, tiếng
nói của ta là biến thể của tiếng Tàu, v.v. Ta không chối cãi là có nhiều điểm
làm cho ta phải tin như vậy vì địa thế, quá khứ lịch sử và văn hóa có nhiều
dính dáng ràng buộc với nước Tàu.
Tuy nhiên, những sai lạc
về suy diễn đã là mây mờ che phủ cái quá
khứ thật sự của ông bà ta mấy
ngàn năm nay.
Thí dụ như hồi xưa khi
nguời Tàu qua nước ta, ông bà ta đã có chữ viết chưa?
Những khai quật cách đây
khoảng 70 năm của bà Madelene Colani tại Đông sơn, Thanh Hóa đưa ra tài liệu về
17 sắc dân Mường và tiếng nói cùng nếp
sống của họ mà cụ Nguyễn Trãi
gọi là "song viết"
Bốn giòng chữ trên một
trống đồng Bắc sơn, khoảng 2000 năm, truớc cả chữ Nôm rất
lâu có thể là để đánh dấu một biến cố quan trọng, tên một triều đại hay một vị
vua chúa, hoặc ghi nhận một trận đánh lịch sử
Hơn nữa, cách đây 100
năm, ông Lacouperie, giáo sư ngôn ngữ, trong sách "Beginning of writing",
xuất bản tại Luân Đôn, cũng đã trưng bằng cớ của bốn mẫu chữ Đông Nam Á.
Có điều là cả 100 năm
sau mới có mẫu chữ này trên trống đồng tìm thấy ở VN mà dĩ nhiên ông ấy không
được biết đến.
Tài liệu này chứng tỏ
hồi xưa cách đây khoảng 2,300 năm và hơn nữa đã có những mẫu chữ viết của các
dân tộc Đông Nam Á, không thuộc Tàu hay Ấn Độ vì không giống tí nào với các mẫu
chữ xưa của Tàu hay của Ấn Độ đồng thời.
Nếu đã có chữ viết riêng
biệt từ xa xưa thì tiếng nói hẳn
cũng riêng biệt, không phải là tiếng Tàu hay tiếng Ấn Độ
Một thành kiến nữa là
cho rằng cái gì bên Tàu là của Tàu, hay do Tàu mà ra [sic]
Thí dụ như nuớc Tàu thì
nguời Tàu ở và nói tiếng Tàu chứ tiếng gì vào đó nữa.
Sự thật là hồi xưa,
khoảng 2500 năm về truớc, nguời Tàu chính cống chỉ ở một vùng đất nhỏ phía trên
trung lưu của sông Hồng Hà.
Họ thuộc bộ lạc tên là
"Hoa" hay "Pa" , ở miền trung của Tàu nên gọi là Trung Hoa.
Từ đó mà xuống tận biển
Nam là một vùng đất mênh mông có nhiều giống dân khác hoàn toàn, khác dân Hoa về tiếng nói cũng như
lối sống, đã ở đó từ ngàn xưa.
Sử Trần Trọng Kim nói
rằng (nhà Ân) nuớc Tàu ở phía trên sông Hoàng Hà. Bên này sông Truờng Giang là man di hết cả [nguòi Man ].
Một dẫn chứng lý thú là
theo sử Tàu, Khổng Tử (551-479) BC cũng không biết gì về các sắc dân đó cả. Ngài bảo với ông Tư
Mã Ngưu, một nguời học trò khi ông ấy sắp di cư về Nam, đến thỉnh ý ngài :
"Ta không biết gì về miền Nam! Chỗ đó nguy hiểm lắm. Có về đó mà sống phải cẩn thận. Dân
ở đó nghe đâu là dân Tam Miêu. Họ nói tiếng khác với ta. Phong tục cũng khác.
Ngay cả cây cối miền đó cung khác. Thức ăn cũng khác. họ trồng lúa mà ăn. Họ
uống một thứ nuớc giải khát từ một lá trong rừng gọi là lá trà. Chúng ta thì ăn
kê và lõa mạch. Ta không biết trà là gì ."[theo tài liệu Shafer "Ancient China"
Hai trăm năm sau đó, ông
Mạnh tử [372-289 BC] cũng còn nói về người nuớc Sở [T'su] vùng Hồ nam bây giờ :
"họ là những nam Man, man di mọi rợ, nói tiếng líu lo. Họ không phải là
nguời chúng ta !"
Rồi thì, duới áp lực
bành truớng của người Hoa, tràn xuống hay xâm nhập lần lần, những nhóm dân khác
phải đi lần xuống miền Nam.của miền Nam
Một vài bộ lạc bị đồng
hoá, bị lấn luớt. Một vài sắc dân khác, nhẫn nhục để cho bị cai trị, mất dần
dân tộc tính, sáp nhập vào dân Tàu..
Lại một vài sắc dân khác
bị mắc bẫy vào guồng máy cai trị của Tàu, ăn bổng lộc của Tàu, nhận tước vị của
Tàu, mặc dù máu mủ bản xứ, nhưng giới cầm đầu là quan lại cho Tàu, có muốn
cuỡng lại hay làm gì cho đồng bào của họ cũng không được [thời ta bị 1000 năm
Bắc thuộc]
Khi các triều đại Tàu
không đủ sức mạnh thì họ chỉ yêu cầu các sắc dân ấy triều cống nhẹ nhàng; nhưng
khi chúng nó hùng hỗ tràn về phía nam qua các cuộc viễn chinh thì các sắc dân
kia, ai không chịu nỗi, tất nhiên phải bỏ chạy về Nam, đến đâu hay đó, đến
những vùng mà ảnh huởng của Tàu chưa hề có
Không biết bao nhiêu
giống dân đã đi về miền Nam,
lớp này qua lớp khác.
Công cuộc ấy kéo dài cả
mấy ngàn năm, mà cho đến nay vẫn còn chưa xong vì theo bản đồ nhân chủng lớn
nhất của Trung cọng , thì vẫn còn # 50 triệu nguời khác giống sống phần lớn ở miền Hoa nam, trong đó
có 25 triệu nguời Zhuang [gốc
Tai], # 10 triệu Yi và Zang [gốc Tây Tạng] và 25 sắc dân khác, ít nhiều từ vài
chục ngàn nguời cho đến hai ba triệu nguời [nguời Hmong,nguời Dao …]
Qua > 2000 năm các
giống người ấy, xem bản đồ, đã liên tiếp di dân về miền nam của miền nam …, theo kiểu "dùi cui đánh đục
thì đục đánh săng" dần dà lai giống với đa số thổ dân ở tại chỗ từ
ngàn xưa, xin nhấn mạnh là nguời thực
sự là bản xứ tại vùng mà bây
giờ gọi là Bắc Việt, Bắc Lào và Bắc Thái Lan.
Những nguời ấy là ai ?
Họ đã ở đó từ ngàn xưa, không đâu tới mà cũng chẳng đi đâu cả, sống ở đó và
chết ở đó từ lâu lắm trước khi các nhóm nguời người xa lạ ở miệt trên lấn xuống
mà ở chung ở đụng
Họ mới thật là ông bà tổ tiên của chúng ta chứ
không phải là cái bọn nguời Hoa nam bị Tàu đuổi xuống, lại càng không phải là
cái bọn Tàu từ Hoa Bắc lấn chiếm Hoa nam !.
Chúng ta bây giờ là máu
huyết pha trộn lai giống với hai nhóm nguời đó qua mấy ngàn năm, qua 100 đời
nguời… mà phần nhiều họ là dân Tai-
Kdai [Thái xưa] cùng với bọn Dao và Hmong xưa chứ không phải là Tàu Quảng
Đông, Tàu Quảng tây, hay Tàu Vân nam [vì vậy mà trong tiếng Việt hiện nay pha
trộn 42% gốc Tai cổ xưa và cũng còn có trên ba trăm tiếng gốc Hmong trong đó,
mà chưa kể 28 % ngôn ngữ ta có gốc Mon Khmer, gốc bản xứ đó !
Theo ông Terrien de Lacouperie trong tài liệu "Les
langues du mondes" / 1887 thì
tổ tiên nguời An nam, nguời Muờng, là kết quả pha gíống của Tai ở Hoa nam với dòng Mon Khmer của miền Đông nam Á, nhưng vì bị
Tàu cai trị suốt 1000 năm và ảnh hưởng thêm 1000 năm nữa nên phong tục và ngôn
ngữ đã vay muợn của Tàu rất nhiều, nhung tuy vậy
vẫn còn mang nặng nhiều nếp
sống # song viết nguyên
thủy của đại tộc Indonesian,
cùng với ngôn ngữ của rất nhiều các nhóm thổ dân ở Đông nam Á.
Giả thuyết này vẫn còn
giá trị vì nay thì ê kip ngôn ngữ của Encyclopedia
Britannica đã đánh gục
cái thành kiến sai lầm về nguồn gốc Tàu của tiếng Việt [xem bài trích dẫn] và tiếng
Muờng Vệt nay đã nằm gọn trong cái nôi ngôn ngữ Đông nam Á, không còn là
một thứ tiếng "mồ côi""bí mật" nữa nhu ông Mario Pei đã
nói.
Giả thuyết xưa cho là
nguời Việt xuôi Hồng Hà và nguời Lào Thái xuôi Mê kông mà xuống chỉ là một lập
luận sai lầm ngay cả về phương diện địa lý nữa.
Măc dù dòng sông là dòng sống nhưng số nguời sống bên cạnh một dòng
sông lớn đâu có nhiều bằng số nguời sống dọc theo tất cả mọi phụ lưu nhỏ đã tạo
thành ra nó.
Giòng sông là một đuờng
chỉ tay mà caí lưu vực của nó là cái bàn tay, rộng lớn hơn cái đuờng chỉ tay
rất nhiều.
Hơn nữa đừng quên rằng
từ ngàn xưa đã có người sống trên vùng đất đó rồi chứ đâu phải đất trống trời
sinh ra để đợi dân Thái dân Việt xuống
mà ở ?! [sic]
Tại Hoà bình cách đây 30
ngàn năm {!} đã có di tích con nguời [xem hình một vật xưa ở đó] Tại Đông sơn
cách đây # 2500 năm cũng vậy, và họ đã để lại nhiều di vật trong đó có hàng
trăm trống đồng ! Và Hoabinhian
và Dongsonian trở thành những
cái tên quốc tế mà ít ra là những nguời có học cũng từng nghe đến. Và đương
nhiên là họ để lại cho dân Giao chỉ rất nhiều tiếng để mà nói
Các cuộc di dân, dù vĩ
đại đến đâu, cũng không ra khỏi cái thực tế ngàn đời là phải lai giống với các nguời sống
tại chỗ, cho dù có tàn sát người ta đi nữa cũng không làm sao mà tiêu diệt
nguời ta cho hết đuợc. Và chính
cái đám dân tại chỗ đó, mà dù
tiếng nói của họ cũng lai cãn theo với tiếng nói của kẻ phương xa ðến, nhưng
vẫn không bị tiêu diệt hay đồng hoá hoàn toàn, mới thật là nói tiếng nói của ông bà chúng ta .
Thành thử mỗi một tiếng
nói sau mấy ngàn năm chung đụng là một sống sót tuyệt vời pha trộn cả vinh quang lẫn ô nhục của
sự chung đụng, đụng chạm và sau cùng là hoà hợp kết hợp dù là đồng lòng tự ý
hay là miễn cuỡng bất đắc di
Mà tiếng nói nào cung
vậy, không riêng chi tiếng Việt.
Tiếng Pháp có 46% tiếng
gốc của Đức , chỉ có 58% là của Latinh, Hy lạp ! Có ai ngờ thế không? [theo
Encyclopedia of Languages / David Crystal]
Tiếng Mỹ thì còn
"quậy" hơn nữa, vay
muợn tùm lum của mọi thứ
tiếng khác trên thế giới chứ đâu phải là một đứa con chính thống của giòng
Anglo Saxon đâu? [theo từ điển American Heritage Dictionary]
Ảnh hưởng của tiếng Ả
rập còn rất nhiều trên tiếng Spanish đến nỗi nguời ta còn ví tiếng này như là
một đứa con ngoại hôn của dòng Indo European
Giờ ta trở về với tiếng
Việt . Từ # 1 triệu nguời cách đây 2 ngàn năm, nay chúng ta đã là 83 triệu,
đông hết biết luôn, sinh đẻ quá nhiều, chết bao nhiêu cung không sao !
Ít ai biết là nay tiếng
Việt đứng thứ "top ten" về số đông nguời nói, dựa trên tiêu chuẫn một
tiếng nói chính thức của một quốc gia dân tộc. Ai cũng biết rằng nay nó là một tiếng nói quốc tế hiểu theo nghiã là đi đâu cũng thấy nó.
Hồi tôi qua Đức cũng
thấy một cô bé Việt ngồi đọc sách truớc nhà thờ lớn nhất thế giới ở Cologne.
Lần tôi đi thăm cái
trống đồng ở Vienna, nguời gác bảo tàng viện ở đó cũng bập bẹ "chào
ông".
Trên Vạn lý truờng thành
năm 2000, tôi cũng nghe nguời Việt nói choẹt choẹt.
Con số gần 3 triệu nguời
Việt trốn chạy cọng sản đã đem lại mùi
vị quốc tế cho tiếng Mường
của ông bà chúng ta, mà cũng là cho tiếng
Việt của năm 2004 !
Theo ông Shafer trong
"Ancient China" thì chính sự kết hợp ngôn ngữ và văn hoá giữa
Tàu và các bộ lạc Hoa nam nhu Hmong, Dao, Yi, Zhuang vân vân, mới khởi sắc sinh ra cái văn hoá củaTàu chứ không phải là ngược
lại !
Sự đóng góp của các bộ
lạc đó vào cho nếp sống của
Tàu nói chung, không phải là
nhỏ mà gần đây càng thấy hiện ra rõ ràng hơn sau gần hai ngàn năm bị Tàu bỏ lo
chỉ vì nó là kẻ chiến
thắng.nên lờ đi những cái đóng góp của những kẻ chiến bại.
Có rất nhiều tài liệu
ngôn ngữ dẫn chứng là dân Tàu đã du nhập "làm của mình" những cái lúc đầu của các giống dân kia, để góp thêm
vào văn hoá và ngôn ngữ của họ, và cái này sẽ là đề tài của một bài viết khác.
Chỉ xin tóm tắt lại,
theo nhận xét về Việt nam của Encyclopedia
Britannica rằng, "mặc
dầu vẫn còn nhiều điểm chưa biết rõ, cái rõ ràng nhất là tiếng
Tàu không chung một gia đinh với tiếng Việt", nó chỉ là một ông hàng
xóm lấn luớt và hoạnh hoẹ muôn đời.
Cái Song viết # nếp sống của dân Giao chỉ ngày xưa vẫn còn cho đến ngày nay, mặc dù có pha trộn nhiều đuờng nét văn hoá vay mươn từ dân Tàu.
BS NGUYỄN HY VỌNG
Sĩ Phu Ơi !
Tổ Quốc đã mất biển dân ta đang mắc cạn
Mất Hoàng Trường sa , mất ải Nam Quan
Ải Nam Quan ơi! Ải Nam Quan!
Còn đâu những chiến tích huy hoàng
Phi Khanh suối lệ ngày đưa tiễn
Bây giờ ôi ! Hỡi Ải Nam Quan !
Nơi đây trùng điệp núi đồi,
Tôi con én nhỏ giữa trời tang thương.
Thét cơn quốc nạn nhiểu nhương
Thét cùng nhân loại đoạn trường dân tôi.
Sĩ phu ơi! Hỡi Sĩ phu!
Non sông bóng tối mịt mù kéo giăng.
Mê Linh trống giục rền vang,
Bạch Đằng xác giặc ngổn ngang một ngày.
Ta phải trả lời quân xâm lược,
Phải nếm mùi khí phách của dân ta!
Giặc vào đây phải gặp cảnh can qua,
Muôn vạn tấm lòng quyết đền ơn nước.
Ta giữ mạng để cùng Anh Em xông lướt,
Chớ thác sinh xem nhẹ tựa lông hồng.
Ơn đồng bào là Hy Mã lạp Sơn,
Nguyện báo đáp bằng tâm hồn xương máu.
Hồn thiêng sông núi hiển linh ,
Giúp con chém cá tràng kình .
Nối chí tiền nhân đạp sóng dữ ,
Đấu sá gì hai chữ Hy Sinh.
Lê Chân
Mc Cleod Ganj, ngày 01 tháng 04 2012
"Nhân dân Tây Tạng đang
trổi dậy bằng chính máu và sự hy sinh mãnh liệt. Không một mãnh lực nào
có thể ngăn cản nổi làn sóng tự thiêu vì Tổ Quốc của người Tây Tạng.
Còn chúng ta -
những người Việt Quốc gia nghĩ sao? Đất nước chúng ta sẽ đi về đâu
khi mỗi người chúng ta chưa thoát ra khỏi sự sợ hãi ? "
Lê Chân - Phóng
viên Phong trào "Liên minh Việt Nam -Tibet đấu tranh cho Tự Do"
No comments:
Post a Comment