Biển Khơi Đó Là Của Việt Nam Chúng Ta
Có thể nói trong lịch sử của Việt Nam chúng ta không có một sự sai lầm hay sơ suất nào lớn lao như sự sai lầm đưa đến “sự mất nước ở Biển Đông” như hiện nay. Bởi vì, nguyên nhân của sự “mất nước ở Biển Đông” này không phải chỉ là do sự chủ động bành trướng xâm chiếm của phía Trung Quốc mà còn là do sự “hổ trợ phụ giúp từ căn bản” cho sự xâm chiếm này từ phía đảng Cộng Sản Việt Nam.
Mà đau đớn thay cho “hậu quả của sự hõ trợ này” là cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, do ông cha chúng ta đã khổ công gầy dựng xây đắp đến ngày nay, cũng đã bị Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm như đang được thấy rành rành trước mắt hiện nay.
Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử cúa Việt Nam, dù có phải trải qua nhiều thời kỳ cay nghiệt bị ngoại bang đô hộ hay chìm đắm trong khói lữa binh đao của việc huynh đệ tương tàn, nhưng một khi người dân nhìn ra biển khơì thì vẫn biết đó là biển khơi của Việt Nam, là của đất nước.
Nhưng, ngày nay, khi nhìn ra biển khơi, thì vẫn là màu nước biển như xưa kia nhưng không ai cón có thể nghĩ được điều tất nhiên đó là như trước đây. Đúng vậy, chúng ta đang bị mất nước ở Biển Đông. Đây là một niềm đau vô cùng cho đất nước và cho cả dân tộc.
Nhín ra biển khơi, các nhóm đảo xa bờ của chúng ta nay đã bị ngoại bang mặc nhiên đến chiếm đóng và đang cho xây cất ồ ạt các cơ sở, các, công trình của họ mà không gặp phải sự kháng cự nào của phía chúng ta. Hơn thế nữa, các tàu thuyền bé nhỏ của ngư dân chúng ta lại đang bị phía Trung Quốc chận bắt và hà hiếp lúc nào không hay ngay trên các vùng biển của chúng ta.
Đó là điều thật quá oái ăm cho “tình thần liên đới huynh đệ giữa hai nước xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc và Việt Nam”., mà các cấp lãnh dạo của hai đảng cộng sản của hai nước này vẫn luôn luôn ca ngợi lẫn nhau và tuyên truyền cho người dân hai nước.
Trong một bối cảnh như vậy, chắc chắn là các “lãnh đạo của phía nước Cộng Hoà Xã Hội Việt Nam” đã phải thật quá ngỡ ngàng và vỡ lẽ khi được nghe “đàn anh Trung Quốc” cho biết cái “hải phận chín khúc” mà họ đã tự vẽ ra bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các vùng biển của chúng ta, và bắt buộc phía Việt Nam phải chấp nhận tuân thủ các qui định phi lý của họ đặt ra. Họ đã căn cứ váo chứng cớ các tuyên cáo trước đây của họ vè việc chủ quyền biển đảo ở Biển Đông với sự đồng tùnh của các lãnh đạo ở Hà Nội.trong thập niên 1950.
Đến mức này thì các “lãnh đạo của phía đảng Cộng Sản Việt Nam” đã phải “sáng mắt” ra vì sự việc này. Nhưng vì trong vị thế yếu kém trước đàn anh Trung Quốc, do các sai lầm sơ khởi khi “bày tỏ sự đồng tình ban đầu với họ trong việc này”, nên đành phải muối mặt chấp nhận thân phận của kẽ “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Vì vậy chăng mà phải chỉ cho phép “đàn em phản đối bằng miệng cho xong chuyện” hay “tự mình trình bày lanh quanh về các phương cách đối phó vấn đề” nơi công khai mà thôi.
Cùng lúc cho những việc này, thì ngoài sự trấn áp tàn bạo người dân quá nóng lòng trong vấn đề này, nhà nước cộng sàn Việt Nam lo việc thực hiện các “hoạt động mị dân” bằng nhiều phương cách bao gồm việc cho cái quốc hội của đảng làm ra cái Luật Biển, cho mua vài chiếc tàu lặn và chiến đấu cơ của Nga, cho đóng vài tàu tuần dương, hay cho đăng lên các hình ảnh tuyên truyền của một vài vị trí trên các quần dảo này với cờ xí của phía Việt Nam được giương lên để nhằm làm cho người dân có cái cảm tưởng là “nước non vẫn còn đó”.và “đảng đang lo đối phó”.
Trong lúc đó thì Trung Quốc vẫn cứ ngang nhiên, sau khi cho qui pháp về hành chính và quân sự cho Thành Phố Tam Sa vừa được thánh lập, đã cho xây dựng ồ ạt các hải cảng, sân bay, căn cứ và hạ tầng cơ sở ở các vị trí chính yếu trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta và cho lực lượng hải quân triển khai hung hậu trên các vùng biển này để bảo trợ chắc chắn cho sự cai trị ngang ngược này của họ.
Lầm Lỡ Chỉ Vì Lãnh Đạo Quá Dại Khờ
Như mọi người đã được biết, kể từ đầu năm nay 2013, các tàu tuần tra hải giám của Trung Quốc được phép bắt giữ và tra xét các tàu thuyền nước khác trên cái “hải phận chin khúc” đó; nhưng như ai ai cũng biết, chắc chắn là Trung Quốc nhằm điều này vào các tàu thuyền của phía Việt Nam.
Như vậy, liệu các đối phó chậm chạp và yếu ớt của phía Việt Nam như hiện nay có kịp thời chận đứng hữu hiệu được các động thái ngang ngược của Trung Quốc hay không. Câu trả lời là “Chắc Chắn Không”. Như vậy là có nghĩa Việt Nam sẽ phải tiếp tục cúi đầu thuần phục Trung Quốc. Và đây cũng là điều ước mong của nhóm lãnh đạo thân Trung Quốc trong hang ngũ đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Nhằm đến nhiều mục đích cho việc muón trở thành một nước lớn, tham vọng bành trướng ra xâm chiếm toàn vùng Biển Đông, thật ra, dã được Trung Quốc ấp ũ nuôi dưởng từ trước nay, ngay sau khi đảng Cộng Sản Trung Quốc thâu tóm và cai trị được phần lục địa của nước này.
Tuy nhiên sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông và Đông Nam Á không những đã thật sự làm cản trở cái kế hoạch này, mà còn cản trở cả tham vọng trở thành một nước lớn của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc đã quyết tâm dùng “chiêu bài chi viện cho Hà Nội” để đánh Mỹ, đánh chiếm Miền Nam, và do đó có thể xua đuổi được Mỹ ra khỏi vùng biển này để “dọn đường cho việc bành trướng xâm chiếm“. Rồi cùng với sự trưởng thành kinh tế, Trung Quốc sẽ có thể trở thành một nước lớn.
Cái “chương trình từng bước” như vậy thật ra quá là quá đơn thuần và dể hiểu nhưng không biêt vì sao các lãnh đão của Hà Nội vào lúc ấy không thể “nhìn thấy được cái “dã tâm xúi dục cho anh em một nhà đánh giết nhau” này của Trung Quốc để mà phòng tránh.
Có thể đã có sự hỗ trợ của nhóm lãnh đạo thân Trung Quốc trong hang ngũ đảng Cộng sản Việt Nam vào lúc đó. Hay cũng có thể chỉ vì quá mãn nguyện khi được nước đàn anh xã hội chủ nghĩa này cung cấp cho vô số súng ống đạn dược để đánh Mỹ, đánh chiếm Miền Nam và lại còn được họ tung hô ca ngợi là “anh hung này nọ” nên đã vô cùng hăng hái dù phải hy sinh bao sinh mạng để việc đánh phá để “dọn đường cho họ chiếm cứ Biển Đông này”
Dù với bất cứ lý do nào đi nữa, thì hậu quả đau thương dưa đến cho đất nước ngày nay cũng đã chứng tỏ rõ ràng sự khinh xuất hay sai lầm trong lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam khởi đầu từ những thới điểm đó.
Vì rằng chắc chắn các lãnh đạo ở Hà Nội đã phải lắm ngỡ ngàng khi phải nhìn thấy hình ảnh Chu Ân Lai “mớm cơm” Kissiger ở Thượng Hải vào năm 1972, rồi quan cảnh “thân tình thân thiết” giữa Mao Trạch Đông và Nixon cùng các lãnh đạo của hai nước Mỹ-Trung trong những hội họp và tiệc tùng ở Bắc Kinh ngay sau đó, những “vị khách quí của Trung Quốc” mà chỉ vài ngày trước đây được hai nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc và Việt Nam gọi là “kẽ thù chung”.
Cũng như nhờ vào “thành quả của sự xúi dục Hà Nội đánh Mỹ, đánh phá Miền Nam” mà Trung Quốc đã thỏa được nguyện vọng là “kéo Mỹ đến lại gần để nói chuyện bang giao” và để dàn xếp những chuyện lợi ích liên quan cho nhau.
Ngay sau đó thì Mỹ đã cho oanh tạc Hà Nội dữ dội để “dằn mật trước khi ra đi” và Hà Nội đã phải điều đình để vay mua trên 500 hỏa tiển phòng không SAM của Nga để có thể đối phó với B52. Món nợ khổng lồ này nay cả nước đang phải trang trải bằng sự hợp tác cho khai thác các giếng dẩu ở Biển Đông. Nghĩa là cả Trung Quốc và Nga đã hăng hái chi viện cho Hà Nội “chiến đấu” là đều có “lý do lợi ích ở Biển Đông”.
Bao nhiêu sinh mạng người dân và tài nguyên ở hai miền đất nước Việt Nam đã phải hy sinh để cho ngày nay Trung Quốc được ngang nhiên ra chiếm cứ Biển Đông và trả nợ cho Nga. Phải chăng chỉ có con đướng đau thương này để đi đến sự thống nhất đất nước. Nhất là phải còn đày đọa người dân dưới cái ách cộng sản ác nghiệt và lỗi thời..Trách nhiệm về sai lầm lãnh đạo, dù ở thời đại nào, rồI cũng sẽ được lịch sử xét xử phân minh về sau này.
Có thể ngày nay một sốcác lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhận thấy được các sai lầm sơ đẳng hay cũng là các sơ suất ấu trĩ của họ trong việc lãnh đạo đất nước trước đây đã làm cho nước nhà phải đi vào tình trạng chinh chiến điêu linh rồi phài “mất Biển Đông cho Trung Quốc”.
Nguyên do chỉ là vì quá dại khờ, nhưng khó thẳng thắn chấp nhận việc sai lầm này trước người dân. Bởi vì, trên quá trình lịch sử của đất nước cho đến nay, với bản chất lòng dạ của những người cộng sản, việc thành thật chấp nhận các sai lầm trong đường lối lãnh đạo thường không được thực hiện trước người dân. Thay vào đó, sự đàn áp hãm hại các công dân có ý kiến chống lại sự cai trị độc tài của họ thì lại được cho tăng cường áp dụng.
Phải Cùng Toàn Dân Lấy Lại Và Gìn Giữ Non Sông
Trước sự ngang ngược của Trung Quốc trong việc ngang nhiên bành trướng chiếm cứ Biển Đông và sự bạc nhược của các lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay trong việc kháng cự lại Trung Quốc để gỉn giữ đất nước, người dân Việt Nam không còn mong đợi được gì nữa ở đảng Cộng Sản Việt nam.
Bởi vì, trước sự việc và tình hình nghiêm trọng cho đất nước như vậy, nhưng các lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam thì một mặt vẫn cho tiếp tục các phương cách đối phó một cách bạc nhược và chậm chạp bằng cách chỉ “nói phản đối cho có chuyện” như đã thấy hiện nay. Một mặt khác thì lại cho tăng cường trấn áp bằng cách bắt giam và hãm hại các công dân đòi hỏi nhà nước cộng sản Việt nam phải cương quyết việc bảo vệ non sông.
Trước tình hình như vậy, chúng ta chỉ còn phương cách là phải cùng toàn dân thấu hiểu sự quí báu của giang sơn gấm vóc mà ông cha chúng ta đã khổ công gầy dựng để tận tâm tận lực ra sức gìn giữ bảo vệ các phàn đát biền đảo và vùng biển đang bị Trung Quốc chiếm cứ ngày nayy.
Có nghĩa chúng ta phải cùng toàn dân luôn luôn tận lực kêư gọi nhắc nhở việc này cho các lớp trẻ trong và ngoài nước. Dù biết rằng các lớp trẻ trong nước đang bị “bóp nghẹt để chùn chân” trong ý thức tranh đấu cho đất nước. Dù biết rằng các lớp trẻ ở ngoài nước, do bối cảnh và môi trường sinh hoạt ở nước ngoài, có phần khó khăn trong tiếp cận với tinh thần tranh đấu cho đất nước.
Đièu chắc chắn là chúng ta không thể có binh lực to lớn như Trung Quốc được. Nhưng, để dối phó hiệu quả với sự xâm lăng của Trung Quốc, chúng ta phải chứng tỏ có lòng đoàn kết yêu nước thương nòi cao hơn họ. Chúng ta phải chứng tỏ cho Trung Quốc và cả thế giới biết rõ được điều này Và chúng ta phải cùng toàn dân cương quyết phản kháng sự bạc nhược và sai lầm lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt nam trước Trung Quốc.
Có làm được như vậy thì chúng ta mới có thể cùng toàn dân làm ra được các sách lược tranh đấu và chương trình hành động hữu hiệu để lấy lại và gìn giữ các vùng biển đảo đang bị kẽ thù xâm chiếm. Mà trước hết là việc phải loại bỏ các thành phần thân Trung Quốc, bọn làm tôi tớ cho Trung Quốc, trong hang ngũ lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bọn họ đang nối giáo cho giặc.
Trước bài học đau thương mà Tây Tạng đã phải hứng chịu, chúng ta phải cùng toàn dân luôn luôn tâm niệm là nếu chúng ta không đồng tâm mạnh dạn cùng nhau kháng cự mãnh liệt trước kẽ thù, thì một ngày nào đó, không riêng gì các biển đảo ở Hoàng sa và Trường sa và các vùng biển của chúng ta ở Biển Đông bị mất đi luôn mà là cả giang sơn đất nước Việt nam của chúng ta cũng có thể trở thành một Tây Tạng thứ hai trước kẻ thù Trung Quốc.
© Võ Ngọc Phước
Có thể nói trong lịch sử của Việt Nam chúng ta không có một sự sai lầm hay sơ suất nào lớn lao như sự sai lầm đưa đến “sự mất nước ở Biển Đông” như hiện nay. Bởi vì, nguyên nhân của sự “mất nước ở Biển Đông” này không phải chỉ là do sự chủ động bành trướng xâm chiếm của phía Trung Quốc mà còn là do sự “hổ trợ phụ giúp từ căn bản” cho sự xâm chiếm này từ phía đảng Cộng Sản Việt Nam.
Mà đau đớn thay cho “hậu quả của sự hõ trợ này” là cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, do ông cha chúng ta đã khổ công gầy dựng xây đắp đến ngày nay, cũng đã bị Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm như đang được thấy rành rành trước mắt hiện nay.
Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử cúa Việt Nam, dù có phải trải qua nhiều thời kỳ cay nghiệt bị ngoại bang đô hộ hay chìm đắm trong khói lữa binh đao của việc huynh đệ tương tàn, nhưng một khi người dân nhìn ra biển khơì thì vẫn biết đó là biển khơi của Việt Nam, là của đất nước.
Nhưng, ngày nay, khi nhìn ra biển khơi, thì vẫn là màu nước biển như xưa kia nhưng không ai cón có thể nghĩ được điều tất nhiên đó là như trước đây. Đúng vậy, chúng ta đang bị mất nước ở Biển Đông. Đây là một niềm đau vô cùng cho đất nước và cho cả dân tộc.
Nhín ra biển khơi, các nhóm đảo xa bờ của chúng ta nay đã bị ngoại bang mặc nhiên đến chiếm đóng và đang cho xây cất ồ ạt các cơ sở, các, công trình của họ mà không gặp phải sự kháng cự nào của phía chúng ta. Hơn thế nữa, các tàu thuyền bé nhỏ của ngư dân chúng ta lại đang bị phía Trung Quốc chận bắt và hà hiếp lúc nào không hay ngay trên các vùng biển của chúng ta.
Đó là điều thật quá oái ăm cho “tình thần liên đới huynh đệ giữa hai nước xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc và Việt Nam”., mà các cấp lãnh dạo của hai đảng cộng sản của hai nước này vẫn luôn luôn ca ngợi lẫn nhau và tuyên truyền cho người dân hai nước.
Trong một bối cảnh như vậy, chắc chắn là các “lãnh đạo của phía nước Cộng Hoà Xã Hội Việt Nam” đã phải thật quá ngỡ ngàng và vỡ lẽ khi được nghe “đàn anh Trung Quốc” cho biết cái “hải phận chín khúc” mà họ đã tự vẽ ra bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các vùng biển của chúng ta, và bắt buộc phía Việt Nam phải chấp nhận tuân thủ các qui định phi lý của họ đặt ra. Họ đã căn cứ váo chứng cớ các tuyên cáo trước đây của họ vè việc chủ quyền biển đảo ở Biển Đông với sự đồng tùnh của các lãnh đạo ở Hà Nội.trong thập niên 1950.
Đến mức này thì các “lãnh đạo của phía đảng Cộng Sản Việt Nam” đã phải “sáng mắt” ra vì sự việc này. Nhưng vì trong vị thế yếu kém trước đàn anh Trung Quốc, do các sai lầm sơ khởi khi “bày tỏ sự đồng tình ban đầu với họ trong việc này”, nên đành phải muối mặt chấp nhận thân phận của kẽ “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Vì vậy chăng mà phải chỉ cho phép “đàn em phản đối bằng miệng cho xong chuyện” hay “tự mình trình bày lanh quanh về các phương cách đối phó vấn đề” nơi công khai mà thôi.
Cùng lúc cho những việc này, thì ngoài sự trấn áp tàn bạo người dân quá nóng lòng trong vấn đề này, nhà nước cộng sàn Việt Nam lo việc thực hiện các “hoạt động mị dân” bằng nhiều phương cách bao gồm việc cho cái quốc hội của đảng làm ra cái Luật Biển, cho mua vài chiếc tàu lặn và chiến đấu cơ của Nga, cho đóng vài tàu tuần dương, hay cho đăng lên các hình ảnh tuyên truyền của một vài vị trí trên các quần dảo này với cờ xí của phía Việt Nam được giương lên để nhằm làm cho người dân có cái cảm tưởng là “nước non vẫn còn đó”.và “đảng đang lo đối phó”.
Trong lúc đó thì Trung Quốc vẫn cứ ngang nhiên, sau khi cho qui pháp về hành chính và quân sự cho Thành Phố Tam Sa vừa được thánh lập, đã cho xây dựng ồ ạt các hải cảng, sân bay, căn cứ và hạ tầng cơ sở ở các vị trí chính yếu trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của chúng ta và cho lực lượng hải quân triển khai hung hậu trên các vùng biển này để bảo trợ chắc chắn cho sự cai trị ngang ngược này của họ.
Lầm Lỡ Chỉ Vì Lãnh Đạo Quá Dại Khờ
Như mọi người đã được biết, kể từ đầu năm nay 2013, các tàu tuần tra hải giám của Trung Quốc được phép bắt giữ và tra xét các tàu thuyền nước khác trên cái “hải phận chin khúc” đó; nhưng như ai ai cũng biết, chắc chắn là Trung Quốc nhằm điều này vào các tàu thuyền của phía Việt Nam.
Như vậy, liệu các đối phó chậm chạp và yếu ớt của phía Việt Nam như hiện nay có kịp thời chận đứng hữu hiệu được các động thái ngang ngược của Trung Quốc hay không. Câu trả lời là “Chắc Chắn Không”. Như vậy là có nghĩa Việt Nam sẽ phải tiếp tục cúi đầu thuần phục Trung Quốc. Và đây cũng là điều ước mong của nhóm lãnh đạo thân Trung Quốc trong hang ngũ đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Nhằm đến nhiều mục đích cho việc muón trở thành một nước lớn, tham vọng bành trướng ra xâm chiếm toàn vùng Biển Đông, thật ra, dã được Trung Quốc ấp ũ nuôi dưởng từ trước nay, ngay sau khi đảng Cộng Sản Trung Quốc thâu tóm và cai trị được phần lục địa của nước này.
Tuy nhiên sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông và Đông Nam Á không những đã thật sự làm cản trở cái kế hoạch này, mà còn cản trở cả tham vọng trở thành một nước lớn của Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc đã quyết tâm dùng “chiêu bài chi viện cho Hà Nội” để đánh Mỹ, đánh chiếm Miền Nam, và do đó có thể xua đuổi được Mỹ ra khỏi vùng biển này để “dọn đường cho việc bành trướng xâm chiếm“. Rồi cùng với sự trưởng thành kinh tế, Trung Quốc sẽ có thể trở thành một nước lớn.
Cái “chương trình từng bước” như vậy thật ra quá là quá đơn thuần và dể hiểu nhưng không biêt vì sao các lãnh đão của Hà Nội vào lúc ấy không thể “nhìn thấy được cái “dã tâm xúi dục cho anh em một nhà đánh giết nhau” này của Trung Quốc để mà phòng tránh.
Có thể đã có sự hỗ trợ của nhóm lãnh đạo thân Trung Quốc trong hang ngũ đảng Cộng sản Việt Nam vào lúc đó. Hay cũng có thể chỉ vì quá mãn nguyện khi được nước đàn anh xã hội chủ nghĩa này cung cấp cho vô số súng ống đạn dược để đánh Mỹ, đánh chiếm Miền Nam và lại còn được họ tung hô ca ngợi là “anh hung này nọ” nên đã vô cùng hăng hái dù phải hy sinh bao sinh mạng để việc đánh phá để “dọn đường cho họ chiếm cứ Biển Đông này”
Dù với bất cứ lý do nào đi nữa, thì hậu quả đau thương dưa đến cho đất nước ngày nay cũng đã chứng tỏ rõ ràng sự khinh xuất hay sai lầm trong lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam khởi đầu từ những thới điểm đó.
Vì rằng chắc chắn các lãnh đạo ở Hà Nội đã phải lắm ngỡ ngàng khi phải nhìn thấy hình ảnh Chu Ân Lai “mớm cơm” Kissiger ở Thượng Hải vào năm 1972, rồi quan cảnh “thân tình thân thiết” giữa Mao Trạch Đông và Nixon cùng các lãnh đạo của hai nước Mỹ-Trung trong những hội họp và tiệc tùng ở Bắc Kinh ngay sau đó, những “vị khách quí của Trung Quốc” mà chỉ vài ngày trước đây được hai nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc và Việt Nam gọi là “kẽ thù chung”.
Cũng như nhờ vào “thành quả của sự xúi dục Hà Nội đánh Mỹ, đánh phá Miền Nam” mà Trung Quốc đã thỏa được nguyện vọng là “kéo Mỹ đến lại gần để nói chuyện bang giao” và để dàn xếp những chuyện lợi ích liên quan cho nhau.
Ngay sau đó thì Mỹ đã cho oanh tạc Hà Nội dữ dội để “dằn mật trước khi ra đi” và Hà Nội đã phải điều đình để vay mua trên 500 hỏa tiển phòng không SAM của Nga để có thể đối phó với B52. Món nợ khổng lồ này nay cả nước đang phải trang trải bằng sự hợp tác cho khai thác các giếng dẩu ở Biển Đông. Nghĩa là cả Trung Quốc và Nga đã hăng hái chi viện cho Hà Nội “chiến đấu” là đều có “lý do lợi ích ở Biển Đông”.
Bao nhiêu sinh mạng người dân và tài nguyên ở hai miền đất nước Việt Nam đã phải hy sinh để cho ngày nay Trung Quốc được ngang nhiên ra chiếm cứ Biển Đông và trả nợ cho Nga. Phải chăng chỉ có con đướng đau thương này để đi đến sự thống nhất đất nước. Nhất là phải còn đày đọa người dân dưới cái ách cộng sản ác nghiệt và lỗi thời..Trách nhiệm về sai lầm lãnh đạo, dù ở thời đại nào, rồI cũng sẽ được lịch sử xét xử phân minh về sau này.
Có thể ngày nay một sốcác lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhận thấy được các sai lầm sơ đẳng hay cũng là các sơ suất ấu trĩ của họ trong việc lãnh đạo đất nước trước đây đã làm cho nước nhà phải đi vào tình trạng chinh chiến điêu linh rồi phài “mất Biển Đông cho Trung Quốc”.
Nguyên do chỉ là vì quá dại khờ, nhưng khó thẳng thắn chấp nhận việc sai lầm này trước người dân. Bởi vì, trên quá trình lịch sử của đất nước cho đến nay, với bản chất lòng dạ của những người cộng sản, việc thành thật chấp nhận các sai lầm trong đường lối lãnh đạo thường không được thực hiện trước người dân. Thay vào đó, sự đàn áp hãm hại các công dân có ý kiến chống lại sự cai trị độc tài của họ thì lại được cho tăng cường áp dụng.
Phải Cùng Toàn Dân Lấy Lại Và Gìn Giữ Non Sông
Trước sự ngang ngược của Trung Quốc trong việc ngang nhiên bành trướng chiếm cứ Biển Đông và sự bạc nhược của các lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay trong việc kháng cự lại Trung Quốc để gỉn giữ đất nước, người dân Việt Nam không còn mong đợi được gì nữa ở đảng Cộng Sản Việt nam.
Bởi vì, trước sự việc và tình hình nghiêm trọng cho đất nước như vậy, nhưng các lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam thì một mặt vẫn cho tiếp tục các phương cách đối phó một cách bạc nhược và chậm chạp bằng cách chỉ “nói phản đối cho có chuyện” như đã thấy hiện nay. Một mặt khác thì lại cho tăng cường trấn áp bằng cách bắt giam và hãm hại các công dân đòi hỏi nhà nước cộng sản Việt nam phải cương quyết việc bảo vệ non sông.
Trước tình hình như vậy, chúng ta chỉ còn phương cách là phải cùng toàn dân thấu hiểu sự quí báu của giang sơn gấm vóc mà ông cha chúng ta đã khổ công gầy dựng để tận tâm tận lực ra sức gìn giữ bảo vệ các phàn đát biền đảo và vùng biển đang bị Trung Quốc chiếm cứ ngày nayy.
Có nghĩa chúng ta phải cùng toàn dân luôn luôn tận lực kêư gọi nhắc nhở việc này cho các lớp trẻ trong và ngoài nước. Dù biết rằng các lớp trẻ trong nước đang bị “bóp nghẹt để chùn chân” trong ý thức tranh đấu cho đất nước. Dù biết rằng các lớp trẻ ở ngoài nước, do bối cảnh và môi trường sinh hoạt ở nước ngoài, có phần khó khăn trong tiếp cận với tinh thần tranh đấu cho đất nước.
Đièu chắc chắn là chúng ta không thể có binh lực to lớn như Trung Quốc được. Nhưng, để dối phó hiệu quả với sự xâm lăng của Trung Quốc, chúng ta phải chứng tỏ có lòng đoàn kết yêu nước thương nòi cao hơn họ. Chúng ta phải chứng tỏ cho Trung Quốc và cả thế giới biết rõ được điều này Và chúng ta phải cùng toàn dân cương quyết phản kháng sự bạc nhược và sai lầm lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt nam trước Trung Quốc.
Có làm được như vậy thì chúng ta mới có thể cùng toàn dân làm ra được các sách lược tranh đấu và chương trình hành động hữu hiệu để lấy lại và gìn giữ các vùng biển đảo đang bị kẽ thù xâm chiếm. Mà trước hết là việc phải loại bỏ các thành phần thân Trung Quốc, bọn làm tôi tớ cho Trung Quốc, trong hang ngũ lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bọn họ đang nối giáo cho giặc.
Trước bài học đau thương mà Tây Tạng đã phải hứng chịu, chúng ta phải cùng toàn dân luôn luôn tâm niệm là nếu chúng ta không đồng tâm mạnh dạn cùng nhau kháng cự mãnh liệt trước kẽ thù, thì một ngày nào đó, không riêng gì các biển đảo ở Hoàng sa và Trường sa và các vùng biển của chúng ta ở Biển Đông bị mất đi luôn mà là cả giang sơn đất nước Việt nam của chúng ta cũng có thể trở thành một Tây Tạng thứ hai trước kẻ thù Trung Quốc.
© Võ Ngọc Phước
No comments:
Post a Comment