Saturday, September 7, 2013

ĐÃ 13 LẦN DÂN VIỆT ĐẠI THẮNG GIẶC PHƯƠNG BẮC XÂM LĂNG

Trưng Nữ Vương (40 - 43) - www.HoPhap.Net
Image du profil
Nước Non Ta Phải Chính Tay Ta Giành Lại
Dẫu Phải Đánh Đổi Bằng Tất Cả Máu Xương.
copy
ĐÃ 13 LẦN DÂN VIỆT ĐẠI THẮNG GIẶC PHƯƠNG BẮC XÂM LĂNG

Trong mấy ngàn năm qua, đặc biệt từ khi tộc Hoa du mục hiếu chiến thành hình ở phương Bắc, từ năm 1046 ttl, người Tộc Việt chuyên trồng lúa nước, hiếu hòa, ở phương Nam, luôn bị giặc Hoa cướp bóc, xâm lăng.
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quânPhương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !

LẦN THỨ 1 : NĂM 1218 TTL, ĐẠI THẮNG GIẶC ÂN, ĐỨC PHÙ ĐỔNG.

PHU DONG

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 ttl, Ân Cao Tôn đã đánh Quỷ Phương, vùng Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía tả ngạn Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn không thắng. [Ngày nay, Nhà Ân còn được gọi là Nhà Hậu Thương].
Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước ta ba năm và đã bị đánh bại.
* Như thế, theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh. Nước nầy đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre… đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ… và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.
[Vào thời kỳ nầy, tộc Hoa chưa thành hình. Phải hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu mới gom góp các bộ lạc du mục khác ở vùng Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu. Từ đó, tộc Hoa mới thành hình và phát triển].
[Đọc thêm Lược Sử Tộc Việt, do Nguyễn Thanh Đức, nxb Tinh Hoa Tộc Việt, 2013, tr 121, đoạn 4.2; và tr 141, phần 1].

LẦN THỨ 2 : NĂM 214 TTL, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA TẦN, AN DƯƠNG VƯƠNG.

An-duong-vuong

Năm 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa.
Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, do Trần Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, q1, tr 18. - Lược Sử Tộc Việt, tr 169, đoạn 6.2].

LẦN THỨ 3 : NĂM 181 TTL, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA TÂY HÁN.

Năm 181 ttl, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa (!).
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 30; Việt Sử Toàn Thư, do Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sgn 1960, tr 89].

LẦN THỨ 4 : NĂM 40 DL, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA ĐÔNG HÁN VÀ TÁI CHIẾM TOÀN THỂ ĐẤT VIỆT LẠC, ĐỨC TRƯNG NỮ VƯƠNG.

Vuong

Năm 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.
Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã cố ý giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán. [Đọc Lược Sử Tộc Việt, tr 327 tt. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 39-40].

LẦN THỨ 5 : NĂM 541 DL, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA LƯƠNG, ĐỨC LÝ NAM ĐẾ.

LY NAM DE

Năm 541 Đức Lý Nam Đế đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa, giành độc lập. Xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.
Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta.
Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 53-56].

LẦN THỨ 6 : NĂM 938, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA NAM HÁN, ĐỨC NGÔ QUYỀN.

NGO QUYEN

Từ năm 906 dl Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.
Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Quyền đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung cũng kéo quân tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin, ông khóc và rút về. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 66-68].

LẦN THỨ 7 : NĂM 981, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA TỐNG, ĐỨC LÊ ĐẠI HÀNH

LE DAI HANH

Năm 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 89-90]. 

LẦN THỨ 8 : NĂM 1076, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA TỐNG LẦN 2, ĐỨC LÝ NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG LÝ THƯỜNG KIỆT.

LY THUONG KIET

Danh tướng Lý Thường Kiệt qua nét vẽ theo phong cách huyền sử. 
(Có tài liệu nói rằng, Lý Thường Kiệt là thái giám nên không để râu, 
tuy nhiên, để giữ hình ảnh võ tướng, ông thường đeo râu giả)Năm 1072 dl, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.”  Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc rộng lớn], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về ! [Đọc thêm Lược Sử Tộc Việt, tr 372-375; Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quý Đôn, (viết năm 1773 dl), nxb Tự Lực, Sgn 1974, tr 174-175, dẫn Nhị Trình Di Thư, do Trình Di, và Uyên Giám, do Hoàng đình Kiên].

LẦN THỨ 9 : NĂM 1258, ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG CỔ LẦN 1, ĐỨC TRẦN THÁI TÔN.

TRAN THAI TONG

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.
Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý].
Vua Trần thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.
Chỉ mấy ngày sau, vua Trần thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 126-128].

LẦN THỨ 10 : NĂM 1284, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA MÔNG NGUYÊN LẦN 2, ĐỨC TRẦN NHÂN TÔN,

NHAN TON

Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.

Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.
Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết xin đem quân trấn giữ.
Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh !
Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An.
Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn dân’. Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !”
Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa.
Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to : “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”
Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.
Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục binh chiếm lại Thăng Long.
Đức Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết, và giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.
Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát Hoan trốn thoát về Tàu.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697 dl, quân Nguyên kéo qua 50 vạn và sáu tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 137-150; Việt Sử Toàn Thư, tr 246-248].

LẦN THỨ 11 : NĂM 1287, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA MÔNG NGUYÊN LẦN 3, ĐỨC TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG.

hungdaodaivuong

Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc chở lương thực. [Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân.
Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp.Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.
Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn thuyền lương.
Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch Đằng (như Đức Ngô Quyền năm 938 dl).
Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 151-161].

LẦN THỨ 12 : NĂM 1428, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA MINH, ĐỨC LÊ THÁI TỔ.

LE THAI TO

Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh, với Trương Phụ, bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu…
Năm 1418, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.
Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long.
Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân. Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.
Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan, viết thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về lên hơn 10 vạn người. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 217-234].

LẦN THỨ 13 : NĂM 1789, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA MÃN THANH, ĐỨC QUANG TRUNG.

QUANG TRAN

Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến đánh. Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.
Đức Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi.
Đức Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long.
Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thuỷ, tới Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi… Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ trong 5 ngày. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q2, tr 130-134].

TỔNG KẾT SƠ KHỞI.

Như vậy, chỉ kể những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, dầu sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, tổng số các đoàn quân xâm lăng Trung Hoa đã có hơn 40 danh tướng, hằng ngàn đại tướng, và hơn 450 vạn quân sĩ… Đang khi đó, kể cả dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu… dân ta không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược. Nhưng bất cứ lần nào, Đại Việt cũng đại thắng !

TRUNG HOA : TÊN KHỔNG LỒ CHIẾN BẠI.

Điểm đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn,Âu, chiếm đóng và thống trị.
Đáng chú ý hơn nữa, tuy tình hình thay đổi tùy thời, nhưng trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa đó, từ Kim, đến Mông, Mãn… lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ, quân đội… cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời. Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.
Ngoài ra, những nhóm người man di và ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa vĩ đại tổng cộng hơn 500 năm. Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm (1644-1911 dl), trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl), và hiện nay (từ 1949 dl, với học thuyết Âu).
Trong suốt hơn 5 thế kỷ đó, kể cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, khuất phục, còn giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng tay hành hạ và đàn áp người dân.
Thực vậy, Trung Hoa luôn là tên khổng lồ chiến bại. Nguyên nhân chính là ách thống trị của bọn ‘thiên tử, thiên triều’ tham tàn bạo ngược, đã biến người dân Trung Hoa thành những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp.Trong suốt 3000 năm qua, hơn 99% người dân Trung Hoa chì là những tên nô lệ đói khát, tự ti, khiếp nhược, không lý tưởng, không nhân phẩm, chỉ biết tham lợi bất chấp thủ đoạn.
Khi mọi người dân chỉ là những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp, khiếp nhược, không ý chí, không tinh thần dân tộc, không đoàn kết… thì sức mạnh trình diển của bọn quan quyền ‘thiên triều’ Trung Hoa cũng chỉ là cái vỏ mỏng manh che đậy sự rời rạc của hàng tỉ mảnh vụn vị kỷ, hèn nhát. Chiếc bong bóng căng cứng nầy sẽ sớm vỡ tan với chỉ một thoáng cọ xát.
Đây là thực tế lịch sử ngàn năm, và cũng là hiện tại.
[Về chủ thuyết Thiên Tử Thế Thiên và hệ quả, đọc thêm Lược Sử Tộc Việt, sđd, tr 28 tt. Hoặc bài Đại Họa và Tử Huyệt của Trung Hoa].

ƯU THẾ CỦA CHÚNG TA.

Hơn nữa, trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức chiến đấu đơn độc một mình. Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất cứ từ đâu đến. Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa ! Tất cả 13 lần, đều đại thắng.
Về phần chúng ta, hiện nay, chúng ta lại đang được yểm trợ từ khắp nơi. Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng, xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại các nền kinh tế, lũng đoạn các thể chế… mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sàng tiếp tay chúng ta triệt hạ mối họa chung là Giặc Trung Hoa. Bạn hữu chúng ta lại nhiều ưu thế hơn Giặc Tàu.
Với bất cứ giá nào, ở bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể nhường Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế hùng mạnh nhất thế giới, nhất là khi toàn thể binh lực Trung Hoa cũng không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch…
Hơn nữa, toàn thể dân Việt hiện nay, ở khắp làng xóm hang cùng ngõ hẻm, đều nôn nức vùng lên chiến đấu Đánh Giặc Tàu. Tinh thần dân tộc và đoàn kết chưa từng bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ như hiện nay. Mọi người đều sẵn sàng.
Cũng phải kể thêm mấy triệu người Việt trên thế giới cũng đang sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn, kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng… ở mọi lãnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, xã hội… Tất cả đều được huy động tối đa để Đánh Giặc Tàu !
Chúng ta có nhiều ưu thế hơn Tổ Tiên chúng ta gấp bội.
Chúng ta cũng sẽ đại thắng.
 Nguyễn Thanh Đức 2013.
Le Chan
Giặc phương Bắc đang tràn vào Tổ Quốc,
Bọn tham quan đã bán đứng giang san.
Chúng cúi đầu làm nô lệ ngoại bang,
Ta thà chết chớ không cam sống nhục.

Cơn quốc biến sao cam lòng nhẫn nhục?
Nhục nào hơn nhục nô lệ ngoại bang!
Ông cha ta khí phách ngang tàng,
Ai cũng sống một lần rồi phải chết.

Ta hãy sống cuộc đời đáng sống,
Sống phơi gan trải mật với Sơn Hà.
Lấy máu đào tô điểm Quốc Gia,
Dầu có thác hồn thiêng cùng Sông Núi.

Hỡi những ai trái tim Hào Kiệt!
Nhà độc tài quyền lực GADDAFI
Phút chốc thôi giờ đã ra đi.
Bọn Dũng ,Trọng , Sang nào sánh gì?

Hãy đứng dậy làm nên lịch sử,
Thét gào lên xua tan quân dữ.
Giặc Bắc phương đã bao lần thảm bại,
Trước tiền nhân lịch sử nước Nam ta.

Giặc vào đây phải nếm cảnh can qua,
Quân bán nước phải phanh da đền tội.
Tiếng núi sông ngàn năm Mẹ gọi,
Lấy máu xương quyết báo đền ân.

Tiếng hô vang quyết chiến của tiền nhân,
Tiếng Mẹ gọi từ ngàn năm lịch sử.
Mẹ Âu Cơ trước muôn ngàn sóng dữ,
Mẹ máu loang cùng khắp quê hương

Mẹ gọi con hãy dọn một con đường!
Con Đường Máu Là Con Đường Cứu Nước!
Mẹ ơi mẹ! Con đường phía trước,
Có đàn con của Mẹ Việt Nam.

Con quyết lòng diệt lũ tham tàn,
Để đời đời Mẹ được sống Vinh Quang.
Hỡi Đồng bào nước Việt!
Nước Việt ta không để vào tay giặc,

Chí hiên ngang ta sống chết một đời.
Xác thân rồi sẽ về cùng cát bụi,
Nhưng uy linh tên tuổi để đời sau.
Đồng bào ơi! Chung góp máu đào

“Hỡi hào kiệt thời nào cũng có”
Vận nước đang cơn cuồng phong bão gió,
Cỡi phong ba ta giành lại Tự Do.
Đây con đường Dân Tộc được ấm no,

Được ngẩng mặt tự hào cùng thế giới.
Đồng bào ơi ! Con đường ta xốc tới,
Phải trải bằng tâm huyết máu xương.
Trải tâm can ta vạch một con đường,

Lybia,Tunisia, Ai Cập cùng Việt Nam ta.
Freedom! Freedom! Freedom!
FREEDOM FOR VIETNAM một ngày không xa
Lê Chân

Đây Con Dân Đại Việt, thề diệt quân
 
 
Đại Hán 
 

VIET

Giữa núi rừng băng gía,lạnh cắt xé thịt da
Giữa thế giới bao la, tình người đang nhạt nhòa
Đây hùng vĩ núi đồi, Tổ quốc Việt nam ơi !
Đang chìm trong tăm tối, hồn đớn đau ngất trời

Ta con dân Đại Việt, thề diệt mộng bá quyền
Chỉ mặt quân Đại Hán, hồn Đại Việt hiên ngang
Cảnh sơn hà điêu tàn, tiếng oán than ngút ngàn
Kia quân gian đại hán, gây bao cảnh lầm than

Trong cơn bão trước cuồng phong dậy sóng
Ngàn mây đen vần vũ cả núi sông
Trong lòng đất còn loang máu hận
Trong cơn mưa mặn nước mắt Dân

Bên vách núi hồn non sông réo gọi
Bạch đằng giang cuộn sóng dâng tràn
Giặc vào đậy nhuộm đỏ giang san
Kia Hoàng Sa tràn ngập máu loang.

Tổ quốc diệt vong ! Ai ơi tổ quốc diệt vong !
Xin gởi ai cùng ý chí Tiên Long
Xin gởi ai dòng máu nóng trong lòng
Xin gởi ai lời thề cứu núi sông

Đây con dân Đại Việt, vì xả tắc quên thân
Ta con dân Đại Việt, quyết nối chí Tiền nhân
Xưa ! Con dân Đại  Việt, làm rung chuyển trời đông
Nay con dân Đại Việt, làm rạng danh Lạc Hồng
Lê Chân
copy

BẮC TIẾN – thơ Lê Chân
 

Ta quyết dọn con đường Bắc tiến
Để tiêu trừ mộng giặc Nam chinh
Dẹp nội thù nối giáo quân Minh
Đánh cho biết dân Nam Hào kiệt

 Hồn Trưng Vương ngàn năm dũng liệt
Triệu Trinh Nương Hùng Khí muôn đời
Bùi Thị Xuân ánh mắt rạng ngời
Ỷ Lan hỡi trí tài mưu lược

 Hỡi nữ sĩ hãy mau xông lướt
Diệt nội thù sau chống xâm lăng
Tiền nhân ta ngàn năm dựng nước
Đâu thiếu trang nữ kiệt Anh Hào

 Nhìn non sông dạ thắt lòng đau
Gương cứu nước ngàn sau lưu lại
Cô Giang đó pháp trường Yên Bái
Tiễn người yêu lên đoạn đầu đài

Nguyễn Thái Học rạng chí làm trai
Dầu hoài bão chưa thành nghiệp cả
Nay nước nhà trong cơn nghiêng ngã
Hỡi Anh Hùng Nữ Kiệt có đớn đau

Chung nhau góp nhặt máu đào
Nước dơ ta rửa sông nào hỡi Anh ?
Không chờ giặc tràn sang ta chống đỡ
Chính thân ta chống giặc chốn Trường Sa

 Hỡi ai chung phận Đàn Bà
Cùng nuôi giấc mộng sơn hà dấn thân
Quyết lòng báo đáp thâm ân
Trước ân tổ quốc sau ân đồng bào

Tay Dơ Ta Rửa Sông Hào
Nước Dơ Ta Rửa Máu Đào Ai Ơi !
Lê Chân

Đồ Họa Tuyệt đẹp về Anh Hùng Văn – Sử Việt

Bức tranh miêu tả lại sự tích An Dương Vương Thục Phán chém yêu tinh gà trắng và xây thành Cổ Loa với sự trợ giúp của thần Kim Qui. Y phục của An Dương Vương phỏng tác theo hình khắc trên trống đồng.
Phút oanh liệt của nữ tướng Bùi Thị Xuân tại pháp trường với hàm ý bà đã hoàn thành xong vai trò và nhẹ nhàng, thanh thản trở về trời.
Đặng Dung mài gươm dưới trăng là một hình ảnh bi hùng trong lịch sử và thi ca (qua bài thơ Thuật Hoài nổi tiếng của ông).
.
Công chúa Huyền Trân chuẩn bị cho hôn lễ tại Chiêm Thành, lòng buồn hướng về quê hương. Cuộc hôn nhân của bà với vua Chăm Pa là Chế Mân đã mang lại một phần đất đai rộng lớn cho Đại Việt.
Tướng Lê Chân - một trong những nữ anh hùng nước Việt. Bà là người có nhan sắc, giỏi thủy chiến lại có tài thơ phú, được Trưng Vương phong là Thánh Chân công chúa và bà rất giỏi thủy chiến.
Hai Bà Trưng cưỡi voi ra trận. Voi trận mang hình ảnh của “voi 9 ngà” trong huyền thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh. Y phục theo áo dài khăn đóng của Việt Nam pha cùng y phục Tây Nguyên.
Hồ Quý Ly và Hồ Nguyên Trừng. Thời đại nhà Hồ được biết đến bởi Những cải cách mới và nhất là sự phát minh súng thần cơ (hỏa pháo cải tiến) và thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng).
Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo được xem có công trong việc cải cách hành chính và đặt cơ sở cho nền độc lập sau này. Y phục vẽ theo tượng của hai vị tại đền thờ
Lê Đại Hành (Lê Hoàn) từng trông giữ thập đạo quân dưới thời vua Đinh. Tranh vẽ với bối cảnh đoàn hùng binh, phía trên có rồng hiện ra tượng trương cho sự trỗi dậy của Đại Cồ Việt. Các cờ hiệu lấy từ các linh vật được tạo ra trong khu đền thờ thời tiền Lê và tiền Lý.
Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) được thần Kim Qui dâng Thuận Thiên Kiếm trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh. Trong tranh có các chiếc lá với dòng chữ “Lê Lợi Vi Quân, Nguyễn Trãi Vi Thần” theo kế sách của Nguyễn Trãi.
Vua Lý Thái Tổ nằm mộng thấy rồng bay - dời kinh đô và đặt tên là Thăng Long.
Lý Thường Kiệt và bài thơ Nam Quốc Sơn Hà. Hình ảnh của ông được phỏng theo các pho tượng Hộ Pháp Thần tại chùa cổ Việt Nam.
Ngô Vương Ngô Quyền và trận đánh đi vào lịch sử trên sông Bạch Đằng. Y giáp được dựa theo một số tranh cổ và sự tưởng tượng. Bàn tay vung ra nắm đấm với ý nói: sẽ đập tan mọi cuộc xâm lược.
Nguyễn Trãi sau khi đại thắng quân Minh đang thanh thản viết lại bài Cáo Bình Ngô lừng danh. Bối cảnh là một phần vách núi theo ảnh thật của ải Chí Linh nơi quân Lam Sơn đánh tan tác quân Minh. Trong tranh còn có cây vải và con rắn gợi ý tới vụ án “Lệ Chi Viên” sau này.
Nguyễn Tri Phương đôn đốc quân chống giặc Pháp đang tấn công thành. Tranh vẽ dựa theo di ảnh chân dung của ông.
Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân cải trang thương buôn đột kích đốt cháy tàu Pháp trên sông Vàm Cỏ. Hình ảnh các bó đuốc lá dừa đặc trưng của miền Nam và di ảnh chân dung ông được dùng trong tranh.
Phan Đình Phùng – lãnh tụ khởi nghĩa Cần Vương và Cao Thắng, người đã sáng chế súng trường cho nghĩa quân.
Quang Trung Nguyễn Huệ đang tiến quân đánh phá giặc Thanh khi những cành đảo Tết nở rộ trên đất Bắc).
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đang viết bài hịch lưu truyền muôn đời: Hịch Tướng Sĩ. Phía sau là bối cảnh trận đánh oanh liệt tại sông Bạch Đằng.
Trần Quốc Toản tay bóp nát quả cam khi không được tham dự hội nghị quân Bình Than.
Bà Triệu “đạp sóng dữ, chém cá kình” trong y phục áo dài khăn đóng truyền thống.
Yết Kiêu - người có công giúp Nhà Trần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ 13 với biệt tài thủy chiến.

No comments:

Post a Comment