Khi giải tán cuộc biểu tình ôn
hòa đầu tiên của người dân Hà Nội ngày 9-12-2007 chống bá quyền Trung Quốc( và
nhiều cuộc biểu tình sau này), công an cộng sản Việt Nam đã loa rằng: “ Việc này của đảng và Nhà Nước, để đảng và
Nhà Nước lo, để đảng và Nhà Nước đòi”. Ngoài việc “loa” công khai giữa cuộc
biểu tình, công an còn “mời” hoặc triệu tập những người yêu nước lên trụ sở để
giải thích( thực chất là răn đe) rằng: “Trung
Quốc mạnh, ta yếu, phải biết lùi. Phải tạm thời nhún họ. Yên tâm! Kiểu gì cũng
lấy lại được những gì đã mất. Cho nên đừng dại mà gây rối”.
Có nghĩa là chính quyền cộng sản Việt
Nam hoàn toàn biết ta đã mất, đang mất những gì. Ở đây, chỉ phân tích hai ý
trong lời vỗ về, hứa hẹn của công an cộng sản Việt Nam.
Họ khẳng định ta (chỉ chính quyền cộng
sản Việt Nam) yếu, Trung Quốc mạnh, phải biết lùi, biết nhún. Tức các ông cầm quyền không hề hèn, không hề “bán nước” như một
số nhân vật đối kháng hay những trang báo “lề dân” nhận định. Mà họ đang dùng
chiến thuật “nghị hòa để cứu nước”, hoặc “lùi một bước tiến ba bước”. Hay hiểu nôm
na rằng, cứ để đối phương “tạm thời” cướp và hả hê với chiến thắng, ta “ngấm ngầm”
chuẩn bị lực lượng cho lớn mạnh, chờ khi có cơ hội, nhân lúc địch thiếu cảnh
giác, ta tấn công đòi lại những thứ chúng đã cướp.( Thế là hoàn thành sứ mệnh một
cách đơn giản). Chiến thuật này là một trong những kế dụng binh được một số mưu
lược gia thời cổ áp dụng khá thành công. Xin mượn một chuyện cổ để minh họa và
để “ôn cố tri tân”:
Khi Việt Vương Câu Tiễn đại bại trước đại binh
của Ngô Vương Phù Sai, ông này đã phải tính kế sách “nghị hòa cứu nước”, chấp
nhận sống thân phận con tin ba năm ở nước Ngô, chịu đủ thứ gian khổ, tủi nhục.
Trong cuốn “Những mẩu chuyện lịch sử Trung Quốc” có đoạn viết: “Vợ chồng Câu Tiễn
mặc y phục tội phạm, nước mắt giàn giụa, quỳ trước Ngô Phù Sai ngỏ ý đầu hàng
và một dạ trung thành với nước Ngô”. Trong thời gian làm con tin, có hai nỗi nhục
mà Câu Tiễn đã nếm trải, khiến bản thân ông ta phải than rằng “ không còn muốn
sống”. Lần thứ nhất, đích thân ông phải đi bộ, dắt ngựa cho Phù Sai cưỡi đi
chơi trước sự giễu cợt, khinh bỉ của dân chúng nước Ngô. Lần thứ hai, ông phải
“dùng lưỡi nếm phân” để bắt bệnh cho Ngô Vương. Mọi việc làm của ông ta đã lấy
được sự tin tưởng tuyệt đối của Ngô Vương. Cuối cùng, sau ba năm, Câu Tiễn
thoát thân phận nô lệ, trở về cố quốc.
Về nước, Việt Vương Câu
Tiễn đẩy mạnh việc xây dựng quốc gia, đưa nước Việt tiến lên con đường giàu mạnh,
tích cực chuẩn bị chiến tranh để tấn công nước Ngô, trả mối nhục quốc thể. Sau
khoảng mười năm chuẩn bị từ khi về nước, Câu Tiễn đã tiêu diệt được nước Ngô, thu
về vô khối chiến lợi phẩm cho nước Việt, bản thân Phù Sai phải tự vẫn vì cầu
hòa bất thành.
Trở lại chuyện bên ta. Bản Hiến Pháp
nước CHXHCN Việt Nam (thời Lê Duẩn) trong phần “lời nói đầu”đã chỉ đích danh
Trung Quốc là “bọn bá quyền Trung Quốc”( được hiểu là kẻ thù của Dân tộc). Rõ
ràng, chính giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam hơn ai hết hiểu rất rõ dã tâm thôn
tính nước ta về mọi mặt của Trung Cộng. Tuy nhiên, “nhận thức” trên (tạm dùng từ
này) của lãnh đạo cộng sản Việt Nam hoàn toàn thay đổi, thể hiện bằng việc bỏ
đi cụm từ “bọn bá quyền…” trong bản hiến pháp năm 1992. Tệ hại đến mức, đến
nay, kẻ thù của Dân tộc nghiễm nhiên trở thành “ông bạn quý” lấp lánh mười sáu
chữ vàng với tinh thần bốn tốt: “láng giềng
tốt, đ…tốt, ….tốt,….tốt.”.Những khẩu
hiệu, cụm từ hoa mỹ được nở rộ trên môi trên miệng của các vị lãnh đạo cộng sản
Việt Nam ở bất cứ nơi đâu, trong bất kỳ thời điểm nào miễn là nhắc đến Trung Quốc.
Cảm thấy như thế còn chưa lột tả hết thiện ý, các báo đài- tóm lại cả hệ thống
truyền thông- ra rả ca ngợi mối tình thủy chung son sắt (!) của hai nước Việt-
Trung. Họ nhồi cho con nít cũng phải thuộc nằm lòng, còn người lớn phải chướng
bụng… mửa ra
Nhận thức của “ta” thì thay đổi, vậy
nhận thức của “địch “ có thay đổi cho tương xứng với mười sáu chữ vàng hay
không? Người viết bài này không có tham vọng “ thống kê” các tội ác, hành động của Trung Cộng trong đó bao gồm cả sự thỏa
thuận, tiếp tay của phía Việt Nam trong chính sách xâm chiếm của họ vì đã có
quá nhiều nhà nghiên cứu, bậc trí thức hay những người quan tâm đến vận mệnh của
đất nước phân tích, đánh giá và phản ánh. Dưới đây, chỉ xin nhắc lại một vài sự
kiện, lấy mốc thời gian từ năm 1958 đến nay để minh họa cho ý kiến của mình.
Năm 1958, ông Phạm Văn Đồng đã đại diện cho
ĐCS Việt Nam ký bản Công Hàm chấp nhận và tán thành Bản tuyên bố của ĐCS Trung
Quốc về bề rộng lãnh hải của Trung Quốc bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa của Việt
Nam.
Năm 1979, Trung Quốc đem quân sang “dạy
cho Việt Nam một bài học”, gây ra cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu.
Tháng ba năm 1988, đánh chiếm thêm 7
đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa.
Hiệp định biên giới trên đất liền
VN-TQ tháng 12/1999 và hiệp định phân định lãnh hải VN-TQ một năm sau đó đã làm
mất gần một ngàn cây số vuông dọc biên giới Việt – Trung. Thác Bản Giốc và Ải
Nam Quan cùng một phần Vịnh Bắc Bộ đã được cống hiến cho Bắc Triều.
Năm 2007, xây dựng khu hành chính
Tam Sa để quản lý Trường Sa và Hoàng Sa của ta. Liên tiếp những hoạt động xâm
chiếm công khai được phía Trung Quốc thực hiện ngang nhiên. Do lú lẫn tình nguyện
tròng cổ vào cái xiềng XHCN, phía “bạn” còn tỏ ra rất dễ dàng thôn tính cả các
lĩnh vực từ chính trị, văn hóa đến kinh tế. Đồng bào trong nước cũng như cộng đồng
người Việt tại hải ngoại đã dấy lên làn sóng quyết liệt phản đối nhà cầm quyền
Trung Quốc và cảnh tỉnh nhà cầm quyền VN nhưng suốt mấy năm qua, chính quyền Việt
Nam không những không lấy lại được những gì đã mất mà còn tiếp tục để Trung Quốc lấy đi những gì
mà chúng ta còn lại. Họ không những không trân trọng những tiếng nói yêu nước
mà còn gia tăng đàn áp bằng cách bỏ tù, sách nhiễu. khủng bố, đánh đập những ai
dám động chạm đến “ông bạn vàng”của họ.
Rõ ràng mấy ông lãnh đạo cộng sản Việt Nam
không phải đang dùng kế “nghị hòa cứu nước”,
chịu nhục trước mắt (chấp nhận cho bọn quan chức cấp thấp Trung cộng tiếp cấp
cao cộng sản Việt Nam) để báo thù sau này. Câu Tiễn xưa chỉ giả vờ thuần phục (
tạm thời) để nuôi kế báo thù. Ông ta cũng chỉ mất khoảng một thập kỷ là hoàn
thành sứ mệnh vì đã có kế hoạch định sẵn. Một mình Câu Tiễn chịu nhục, trong
khi cả dân tộc đồng lòng, chờ mệnh lệnh của ông ta tấn công đánh giặc.
Mấy công an tự xưng đại diện cho Đảng,
Nhà Nước hứa với tôi là sẽ lấy lại được những gì đã mất nhưng, hơn nửa thế kỷ
đã trôi qua, đất vẫn mất, biển đảo vẫn mất, con dân Việt Nam vẫn phải chết oan ức
trên biển của Tổ Quốc mình, nỗi nhục quốc thể cả Dân tộc vẫn phải mang nặng. Đến bao giờ…! Nhìn sang hai nước trong
khu vực là Thái Lan và Cam -pu- chia, thấy thẹn và …thèm. Tôi không định cổ xúy
cho xung đột, cho chiến tranh. Cũng không định bình luận hay kết luận chủ quyền
của ai tại ngôi đền tranh chấp Preah Vihear. Nhưng ít ra, lãnh đạo của cả hai
quốc gia này đều hiểu rõ giá trị tinh thần mà họ mang lại cho người dân. Công
dân của họ cảm thấy yên tâm khi thấy mình thật sự được tôn trọng và được bảo vệ.
Hoặc chí ít, không bị chính quyền coi là kẻ chống đối nếu hô: “Preah Vihea là của
Thái Lan”, “Preah Vihear là của Cam-pu-chia”. Ngôi đền Preah Vihear có thể mang
nặng gía trị về tín ngưỡng, tinh thần hơn là giá trị kinh tế, nhưng cả Thái Lan
lẫn Cam-pu chia đều không muốn mất. Điều gì khiến hai nước tranh chấp kéo dài
suốt cả thế kỷ qua và gia tăng trong những năm gần đây? Tất nhiên có nhiều
nguyên nhân mà một công dân ở một nước láng giềng như tôi, hạn chế về thông tin
cũng như hiểu biết có hạn không thể tường tận được. Song cũng xin mạo muội mà
bày tỏ suy nghĩ đơn giản rằng: Phải chăng, lãnh đạo của họ muốn ngăn chặn những
thứ sẽ mất trong tương lai khi hai bên đều nhìn thấy nguy cơ nếu để mất ngôi đền?
Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, không để đối phương “được đằng chân lân đằng đầu”,
dẫn đến nhiều hệ lụy về sau đời con cháu gánh chịu. Không vô lý khi cho rằng, giới
lãnh đạo hai nước đã chấp nhận xung đột “tạm thời”, hòng tìm kiếm cơ hội cho cả
hai bên. Bởi vấn đề này đã được đưa lên Tòa án Quốc tế vì Công lý. Khi binh sĩ
hai bên đã nã súng vào nhau, lập tức cả phía Thái Lan lẫn Cam-pu-chia đều tiến
hành các biện pháp ngoại giao nhằm ngăn chặn chiến sự leo thang. Trong một thế
giới bị chi phối bởi những mối quan hệ đa phương, song phương phức tạp, cộng
thêm các vấn đề về chủ quyền và lợi ích Dân tộc, giải pháp cho tất cả các bên
liên quan rất khó khăn nhưng không phải không thực hiện được. Điều này phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, quan trọng nhất là quyết định sáng suốt của nhà cầm quyền.
Người lãnh đạo cho dù có là thiên tài thì ông ta cũng tự làm ngu mình nếu coi
thường ý kiến của người dân, nguy hiểm hơn là coi dân là kẻ thù. Điều đó mang mầm
mống của sự diệt vong.
Người Thái Lan và người Cam-pu-chia
không chịu mất ngôi đền với diện tích nhỏ bé Preah Vihear. Chẳng nhẽ người Việt
chúng ta cứ để mất dần những gì cha ông để lại mà không làm được gì sao?
Ngày hôm nay là tấm hộ chiếu Trung Quốc in
hình lưỡi bò, ngày mai có thể đến lượt hình Tháp Rùa Hà Nội, hay chợ Bến Thành xuất
hiện lên đâu đó trong tấm bản đồ Trung Quốc. Và để đối phó với những tiếng nói
yêu nước, biết đâu trong một chuyến “đi đêm”, lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại cầu
cạnh rằng : “Ông anh vừa vừa hoặc cầm chừng cho thằng em nhờ. Bọn
dân ngu khu đen trong nước phản đối ghê quá, em không thể làm ngơ mãi được.”.
Thế là lãnh đạo Trung cộng đành tặc lưỡi mà rộng lượng phán rằng: “Thôi chú mày cứ cho bọn ngư dân ra biển đánh cá, anh sẽ tạm thời không bắn
giết gì hết. Nhưng nhớ là phải dẹp ngay bọn to mồm nhé. Phải thiến hoạn hết chất
anh hùng của chúng nó, dạy cho chúng sống kiếp tôi đòi như các chú ấy. Có như
thế, anh mới cứu được chú. Có mỗi thế mà chú mày cũng không làm nổi”. Cuộc “mặc cả” xong xuôi, bà
con ngư dân Việt Nam ra biển không bị mất mạng( tất nhiên chỉ một thời gian nhất
định nào đó thôi, khi Trung cộng có kế hoạch mới thì coi như lời hứa kia hết hiệu
lực). Lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ được thể lên mặt với nhân dân rằng: Đấy là
do chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo của ta nên ngư dân mới được yên tâm
ra biển. Thể hiện trí tuệ đỉnh cao của Đảng và Nhà Nước v.v… và v.v…Bọn “chống
đối” không còn cơ hội lên tiếng, bọn khác đang trên đà nhận thức lại sẽ không
có cơ hội nghi ngờ, sẽ phải tin và khen đảng rối rít. Rồi ra sẽ tự ân hận vì
chót nghi ngờ đảng, chuộc lỗi bằng cách mắng mỏ chửi rủa bọn “phản động”, bọn
“gây rối”.
Việt Nam không phải không có hay
không còn cơ hội lấy lại những gì của chính mình. Nhưng phải dựa vào sức mạnh của
Dân tộc, dựa vào bằng chứng lịch sử và Luật pháp Quốc tế chứ không phải bằng
con đường “đi đêm” của lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Chừng nào những người yêu nước
còn bị bỏ tù, chừng nào đảng cộng sản Việt Nam còn cầm quyền thì sẽ có ngày
nhân dân Việt Nam phải sống lưu vong trên chính mảnh đất quê hương của mình. Và
nguy cơ về một Dân tộc lưu vong sẽ thành hiện thực.
No comments:
Post a Comment