Thursday, February 20, 2014

ÔNG GIÁO SƯ DẠY SỬ

Kính chuyển – Nếu đây là một câu chuyện thật thì nên dịch ra tiếng Anh và gởi đến tất cả các trường đại học, trung học đệ nhị cấp, các đài phát thanh, truyền hình và các tờ báo lớn. Làm như vậy không phải hy vọng là bài này sẽ được đăng trên báo, đọc trên đài phát thanh hay đem vào chương giáo dục ở các trường học… mà là để thức tỉnh cái đám thiên tả u mê, mù quáng (mặc dầu mang danh trí thức, khoa bảng).


Tác giả – Vương Mộng Long

- Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.

Một chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C. C.).



So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.
Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh …nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.
Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những c thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thầy giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thầy sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở, – Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng, – Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những c liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi, – Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
- Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,
- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời, Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời ơi!”
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt – Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,
- Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
- Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”
Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Seattle tháng 7 năm 2011 Vương Mộng Long-K20
Vương Mộng Long - K20 VBQGVN
Seattle, tháng 7 năm 2011

http://baovecovang2012.wordpress.com/2014/02/16/ong-giao-su-day-su-vuong-mong-long/

Wednesday, February 19, 2014

CHỐNG MỸ LÀ NHẦM RỒI!



Để giải tích hiện tượng “chống Mỹ 35 sau,” ngoài những chuyện về quá khứ, cũng có những vấn đề về quan điểm. Tôi hoàn toàn chấp nhận những người không thích mô hình tư bản cụ thể của Mỹ. Thực vậy, có nhiều người, kể cả tôi cũng thấy mô hình kinh tế của Mỹ có cái tốt và cái xấu. Nhưng, vì lợi ích mà Việt Nam đã có quan hệ thương mại với các nước tư bản (trong đó có Nhật, Đài Luân, Hàn Quốc, Singapore….) thì rõ ràng vấn đề không phải chỉ nói về mô hình kinh tế, mà còn có những yếu tố khác. Trong đó rõ rằng có nhân quyền, như mội người đã đề cập.

Trong những ngày gần đây, đặc biệt là đến ngày 17 tháng 2, có vẻ người ta đã thấy một chiến dịch nào đó có nội dung “chống Mỹ,” nói xấu “người Mỹ,” tuyên bố quan điểm “Mỹ là nước vi phạm nhân quyền hàng đầu trên thể giới” (dù là trích dẫn trực tiếp từ phát ngôn của Công Hòa Iran) v.v.


Chúng ta không thể thay đổi lịch sử, nhưng chúng ta cũng không nên trở thành những tù nhân của lịch sử. Tôi phản đối quyết liệt chiến dịch này không phải vì tôi là người Mỹ mà…vì nó hoàn toàn nhầm mục tiêu và phản ánh một tư duy rất hạn chế và mị dân.

Tuesday, February 18, 2014

Không Thích Chuyện Chính Trị


Có người, khi nghe đề cập đến những vấn đề liên quan tới Việt Nam, nhất là những chuyện xấu xa của chế độ Cộng Sản, thường giẫy nảy lên mà rằng: "Tôi không thích nói chuyện chính trị". Cũng có người, khi thấy đồng hương đi biểu tình chống Cộng, thường bĩu môi: "Tôi không thích những người làm chuyện chính trị".

Thưa bạn! Nếu tôi bảo: "Chính suy nghĩ đó đã nhuộm đỏ miền Nam, và cũng chính phát biểu đó, đã chẳng những nuôi dưỡng chế độ CS, mà còn tạo điều kiện cho CS thò cánh tay ra hải ngoại, quấy phá Cộng đồng người Việt tỵ nạn". Chắc chắn bạn sẽ không bao giờ tin tôi, chưa nói là bạn sẽ trút lên đầu tôi những lời lẽ không đẹp, bẩn thỉu nhất, có khi không chữ nghĩa tìm thấy trong từ điển.

Này nhé! Bạn theo tôi một thoáng trở về quá khứ. Bạn phải đồng ý với tôi một điều. Miền Nam được Thế giới Tự Do - đứng đầu là Mỹ - chọn làm tiền đồn chống Cộng, ngăn chặn hiểm họa CS đang bành trướng khắp vùng Đông Nam Á. Đó là cuộc chiến tranh "ý thức hệ".

Hào Kiệt và Nhân Quyền

Có rất nhiều lý do mà tất cả anh chị em Hào Kiệt phải rủ áo, phải lên đường, phải đến Washington DC để bảo vệ Nhân Quyền bằng cách hiện diện để các Thượng Nghị Sĩ trong Ủy Ban Đối Ngoại cảm nhận sự quyết tâm của chúng ta mà đoái hoài đến dự luật nhân quyền và yêu cầu họ thông qua dự luật nhân quyền cho Việt Nam.

 

Chúng tôi chỉ nhắc đến một và chỉ một lý do trong nhiều lý do để anh chị em chúng ta chưa quyết định đến DC, hãy suy ngẫm về lý do sau đây mà phải về DC:

Chào Mừng Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam



HỘI CỰU TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM VIỆT NAM
TUYÊN BỐ

Kính thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước,
Kính thưa các Thân hữu Quốc tế tại các Quốc gia dân chủ.
Tự do lương tâm là một trong các quyền cơ bản của con người, bên cạnh tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận… Sống theo lương tâm là sống trong đạo đức, trong tình thương, trong công lý và trong sự thật. Hành động theo lương tâm là hành động mang lại hạnh phúc cho nhân quần xã hội, đặc biệt cho những ai là nạn nhân của mọi xâm hại quyền con người. Ở Việt Nam, có rất nhiều người đã bị giam cầm chỉ vì họ đòi hỏi các quyền con người cơ bản bằng phương thức ôn hòa bất bạo động. Tổ chức Ân xá Quốc tế gọi họ là Tù nhân Lương tâm.

Sunday, February 16, 2014

CUỐI ĐƯỜNG LỊCH SỬ?


Lịch sử là chuỗi dài những gì mà một dân tộc, thậm chí là một sắc tộc hay cả thế giới sinh sống, hoạt động và được ghi chép lại để cho các thế hệ mai sau hiểu biết quốc gia họ, thế giới họ đã xuất hiện ra sao, hình thành Quốc  Gia thế nào, dựng nước và giữ nước với ý chí nào, chiến lược chiến thuật ra sao, hướng đi của văn hóa và sự bồi đắp truyền thống dân tộc qua các thế hệ ra làm sao, v.v... và v.v... Cha ông người Việt chúng ta cũng có một lịch sử. Từ khi lập quốc cho đến bây giờ tính ra đã hơn 4 ngàn năm. Đọc lịch sử chúng ta rất hãnh diện những gì cha ông đã làm để dựng nước ra sao, để giữ nước thế nào... Riêng về văn hóa Việt Nam lại có một lịch sử sáng chói với những ý niệm ban đầu về Trời Đất, về tiếng nói, về văn tự. Quan niệm văn hóa, tiếng nói và chữ viết của người Việt, ngay cả những người Việt từ trước đến giờ vẫn chấp nhận một "sự thật hiển nhiên" là văn hòa của ta chịu ảnh hưởng của Tàu. Nhưng lịch sử học và khoa khảo cổ học đã chứng minh ngược lại, những màn "ăn cắp" văn hóa Việt Nam của người Tàu ngày càng "rõ nét", ngày càng lộ mặt là ngay tiếng nói của và chữ viết của người Tàu cũng từ Việt Nam mà ra. Khổng Tử cũng phải nói "Đạo từ Phương Nam", Phương Nam là ai nếu không phải là Việt Nam.
Nhưng, một ngày gần đây, những sử gia thế giới và ngay cả những người Việt Nam sẽ kết thúc dòng lịch sử Việt Nam với những hàng chữ: "... đến khi Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đặt đất nước dưới danh hiệu "anh em ruột thịt" trong cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, trong đó Việt Nam là một đảng Cộng Sản đàn em của Trung Cộng và từ đó người Tàu đã làm đủ mọi cách từ đồng hóa, xâm lấn v.v... với sự tự nguyện phục vụ người Tàu của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản do ông ta thành lập, đã đưa Việt Nam tới họa diệt vong, người Tàu đã xâm chiếm và đồng hóa Viêt Nam, chấm dứt một lịch sử rất oai hùng của dân Việt Nam. Ngày nay trên bản đồ thế giới không còn ba chữ "NƯỚC VIỆT NAM", vì nó đã được người Tàu sáp nhập vào lãnh thổ của họ".
Hỡi tất cả những đảng viên Cộng Sản. Những lời kết tội quý vị trên đây có đúng không? Có oan không? Từ ngàn xưa, lịch sử Việt Nam là một lịch sử chống  người Tàu xâm lược, bao nhiêu lần bị Tàu xâm lăng; thế mà cha ông chúng ta vẫn luôn luôn quật khởi và giành lại độc lập. Nhờ đâu? Nhờ vào tinh thần vua quan và toàn dân một lòng chống giặc, luôn luôn trân trọng những anh hùng chống Tàu xâm lược. Ngày nay, đảng Cộng Sản cầm quyền lại là tay sai đắc lực của Trung Cộng. Có đúng không? Người đảng viên Cộng Sản nên suy nghĩ lại, suy nghĩ từ văn kiện bán nước của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, suy nghĩ đến trận hải chiến giữa VNCH và Trung Cộng, giữa Trung Cộng và Việt Cộng, đến những đàn áp mà Việt Cộng dành cho dân chúng hôm nay đứng lên chống Trung Cộng. Quý vị có khi nào thấy một hành vi cụ thể của Việt Cộng chống lại Trung Cộng? Quý vị có thể nào biện bạch rằng tại vì Tàu đang mạnh quá, chúng ta chống e rằng... thua? Cha ông chúng ta đã chống và thắng Mông Cổ 3 lần làm cho chúng cúp đuôi chạy dài, cả thế giới ngưỡng phục. Quý vị đừng chống chế nữa. Xin quý vị đọc bài thơ Họa Mất Nước của ông Vũ Đình Hậu mà tôi đã có lần đọc giúp quý vị và trình bày trên các diễn đàn:

Wednesday, February 12, 2014

Ngắm nhà sàn Indonesia giống hệt hình vẽ trên trống đồng Việt

Một tộc người ở Indonesia vẫn duy trì kiểu nhà sàn giống hệt với những hình vẽ trên trống đồng Đông Sơn của Việt Nam.
Những hình khắc trên nhiều chiếc trống đồng Đông Sơn của Việt Nam thể hiện hình ảnh của một loại nhà sàn có mái cong vút lên như hai đầu mũi thuyền. Hai đầu nhà có hai cột chống và ở giữa có kê thang để lên sàn. Các dữ liệu lịch sử về kiểu nhà sàn này ở Việt Nam hầu như không có.
Tuy vậy, một tộc người ở Indonesia vẫn duy trì kiểu nhà sàn giống hệt với những hình vẽ trên trống đồng Đông Sơn. Đó là tộc người Toraja sống trên đảo Sulawesi của Indonesia.
Những chiếc nhà sàn hình thuyền của họ được gọi là tongkonan.

Hậu duệ Hai Bà Trưng' trên đảo Sumatra

Các nhà nghiên cứu ở Indonesia tán thành giả thuyết người Minangkabau đến từ Việt Nam. Nhiều đoạn phim quảng bá du lịch cho đảo Sumatra đã tuyên bố tổ tiên người Minangkabau là người Việt đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền, nhằm nhấn mạnh sự độc đáo của nền văn hóa Minangkabau.
Theo giả thuyết nhà nghiên cứu độc lập Trương Thái Du đưa ra, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, vào cuối năm 43 một bộ phận người Việt đã lên thuyền ra khơi và dạt vào Eo biển Malacca nhờ gió mùa Đông Bắc. Tiếp đó, họ định cư tại khu vực phía Tây đảo Sumatra và trở thành dân tộc Minangkabau ngày nay. Ảnh: Cô dâu và chú rể người Minangkabau trong đám cưới.
Tộc người này theo chế độ thị tộc mẫu hệ giống như người Việt cổ. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, em gái của Turun Cicik nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi. Hai danh xưng này rất giống tên gọi của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị. Ảnh: Phụ nữ Minangkabau trong trang phục truyền thống.
Kiến trúc truyền thống Minangkabau là những ngôi nhà mái cong vút như cặp sừng trâu, có đường nét giống với nhà sàn hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn, được gọi là Rumah Gadang.

Monday, February 10, 2014

Một nhà từ thiện phải đột ngột rời VN .................


Lời mở đầu: " Hội từ thiện Măng Non (tên tiếng Pháp là Association Avenir,http://www.mangnon.free.fr/) thành lập tại Pháp hoạt động từ năm 1994 với mục đích giúp đỡ các sinh viên và học sinh nghèo tiếp tục theo học. Một cách đều đặn từ 18 năm qua cứ hai năm một lần hội tổ chức những chuyến du lịch Việt Nam để tặng quà cho các trường học và để các nhà hảo tâm có dip thăm viếng Việt Nam và gặp các em mà họ giúp đỡ. Cho tới nay các chuyến du lịch này diễn ra môt cách bình thường dù bị công an theo dõi rất sát nhưng lần này công an đổi thái độ và ra mặt sách nhiễu. Bà Lương Thị Hồ Quì, vợ ông Nguyễn Gia Kiểng, một trong những sáng lập viên của hội và cũng là chủ tịch hội trong những năm đầu, đã phải rời Việt nam đột ngột sau khi bị
công an đe dọa an ninh nhân thân. Phái đoàn sau đó cũng bị sách nhiễu. Trọng Khiêm đã liên lạc với bà Hồ Quì sau khi bà về Pháp. Sau đây là phần chính cuộc phỏng vấn.
Trọng Khiêm: Chào chị Quì, tại sao chị về Pháp cắt ngang cuộc thăm viếng Việt Nam?


Bà Hồ Quì: Tôi bị buộc phải rời Việt Nam vì bị công an đe dọa. Người chỉ huy công an nói với tôi rằng họ không trục xuất tôi nhưng nếu tôi không rời ngay Việt Nam thì họ sẽ không bảo đảm an ninh cho tôi và phái đoàn Măng Non đi đến đâu họ cũng không để yên.
Trọng Khiêm: - Chị nghĩ rằng họ có thể bạo hành?

KHÁNG THƯ CỦA HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM VỀ VIỆC NHÀ CẦM QUYỀN CSVN BẮT GIAM TRÁI PHÉP CỰU TÙ NGUYỄN BẮC TRUYỂN


Inline image 1

Sài Gòn, Ngày 10 Tháng 2 Năm 2014

THƯ PHẢN ĐỐI

Về Việc: Luật Gia Nguyễn Bắc Truyển, cựu Tù Nhân Lương Tâm vừa bị bắt giam ngày 09/02/2014 tại tỉnh Đồng Tháp.

Kính gửi : Giám Đốc Công An Tỉnh Đồng Tháp.
Đồng Kính : Đại Tướng Trần Đại Quang Bô Trưởng Công An CHXHCNVN .

Thưa quí vị,

Chúng tôi thay mặt Hội Ái HữuTù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam
Gửi thư phản đối nầy lên quí cấp về việc:


Vào ngày 9/2/2014 công an tỉnh Đồng Tháp sau một ngày vây ráp đã bắt giam Luật Gia Nguyễn Bắc Truyển tại gia đình Ấp Hưng nhơn, xã Long Hưng Huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp;hiện nay không rõ giam giữ ở đâu.

Sam Rainsy, con Cờ mới của Trung Cộng ,con cờ của chủ nghĩa dân tộc cực đoan

Sam

TRUNG TRON
Khái niệm chủ nghĩa dân tộc có từ thời cổ Hebrew gần hai ngàn năm trước Thiên Chúa, qua đó, một tập thể người xác định họ khác với các tập thể người khác dựa trên các tiêu chuẩn chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, lịch sử. Có nhiều loại chủ nghĩa dân tộc và loại nguy hiểm nhất là chủ nghĩa dân tộc cực đoan (Extreme nationalism, Ultra-nationalism) trong đó một dân tộc tự nhận có đặc tính chủng tộc, văn hóa, lịch sử siêu việt vượt lên trên các dân tộc khác. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan cũng là môi trường để các chính trị gia cơ hội dùng hận thù để khích động chiến tranh, khơi dậy mặc cảm dân tộc như một thủ đoạn chính trị để nắm lấy quyền lực. Một chính trị gia Cambode đang sử dụng cả hai phương pháp này, và y tên là Sam Rainsy.
Sam Rainsy là ai?
Sam Rainsy sinh ngày 10 tháng 3, 1949 tại Nam Vang. Du học tại Pháp năm 1965. Tốt nghiệp nhiều bằng cấp về tài chánh. Tham gia đảng Mặt Trân Đoàn Kết Quốc Gia vì một Cambode Độc Lập, Trung Lập, Hòa Bình và Hợp Tác, gọi tắc là Funcinpec (Front Uni National pour un Cambodge Indépendant, Neutre, Pacifique, et Coopératif) và đại diện châu Âu của đảng này. Funcinpec được thành lập từ thời vua Norodom Sihanouk nhưng yếu dần sau khi ông Hoàng xứ chùa Tháp bị tướng Lon Nol lật đổ trong vắng mặt và lưu vong. Khi Pol Pot lên cầm quyền số đảng viên Funcinpec còn lại phần lớn bị giết. Sau khi về nước 1993, Sam Rainsy được giao chức vụ Bộ Trưởng Tài Chánh nhưng bị bất tín nhiệm hai năm sau đó. Năm 1995, Sam Rainsy tự thành lập đảng riêng, Đảng Quốc Gia Khmer (KNP) và sau đó đổi tên thành Đảng Sam Rainsy. Giữa năm 2012, Đảng Sam Rainsy sáp nhập với Đảng Nhân Quyền do Kem Sokha lãnh đạo thành đảng Đảng Cứu Nguy Dân Tộc Cambodia (Cambodia National Rescue Party, CNRP).

Wednesday, February 5, 2014

VIỆT NAM KHÓ ĐƯỢC VÀO TPP VÌ VI PHẠM QUYỀN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ CĂN BẢN


 Việc thương thuyết về Hiệp Ước Hợp Tác Xuyên thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP) giữa 12 quốc gia trong đó có Việt Nam, có nhiều triển vọng sẽ kết thúc trong năm 2014.  Hoa Kỳ là quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất đang lãnh đạo việc thương thuyết này.  Khi nhiều nước họp lại để trao đổi thương mại với nhau, luôn luôn có một số vấn đề phải cùng nhau giải quyết. Những vấn đề chính của TPP bao gồm quyền lao động, đầu tư, thu mua hàng hóa và dịch vụ của chánh phủ, dược phẩm và nông phẩm. Quyền lao động đứng hàng đầu, một vấn đề giản dị đối với những nước văn minh, nhưng xem ra gai góc đối với Việt Nam. Giữa một nước giầu và tiên tiến nhất là Hoa Kỳ và một nước nghèo và chậm tiến nhất là Việt Nam, đương nhiên có sự xung khắc mạnh mẽ về vấn đề lao động.  Trong phần (I) của bài phân tách này chúng ta sẽ bàn về quyền lao động ở Việt Nam. Ở phần (II), chúng ta sẽ nói về quyền lao động và việc gia nhập TPP của Việt Nam.

I.                    QUYỀN LAO ĐỘNG

Điều 69 của Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định rằng “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luận.”

Điều 25 của Hiến Pháp Việt Nam 2013 cũng quy định tương tự: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”

Trên thực tế, công dân Việt Nam không có những quyền như vậy kể cả quyền hội họp và lập hội.

Inline image 1

Bà Trần Thị Ngọc Minh và Co Leticia Mederos, nhân viên lập pháp của DB George Miller, một dân biểu "nặng ký" trong vấn đề TPP, ngày 23/1/2014 (ảnh BPSOS)

Tuesday, February 4, 2014

Sứ Mạng của Thanh Niên Trước Lịch Sử & Dân Tộc

                  
A.- Sứ Mạng Cứu Quốc và Kiến Quốc của Thanh Niên Qua Dòng Biến Cố Lịch Sử Nước Nhà. 
        Trên dòng sử dân tộc Việt Nam, những tấm gương soi sáng muôn thế hệ của những bậc anh hùng, những bậc anh thư, nữ kiệt: Trưng Vương, Bà Triệu v.v... . những trang thiếu niên anh hùng cái thế như: Đinh Bộ Lĩnh “phất ngọn Cờ Lau”,Trần Quốc Toản “Phá cường địch, báo Hoàng Ân” khi giặc Nguyên xâm lược nước ta. Một nho sinh Nguyễn Trải theo Lê Lợi người anh hùng áo vải đất Lam Sơn mười năm bình định giặc Minh (bọn xâm lược phương Bắc kẻ thù truyền kiếp) dành độc lập cho dân tộc. Vào thời cận đại; người thanh niên áo vải đất Tây Sơn (Bình Định) là anh hùng Nguyễn Huệ/QUANG TRUNG lãnh đạo cuộc khởi nghĩa toàn dân vùng lên đập tan giặc Thanh vào mùa Xuân Kỷ Dậu năm 1789 do bọn vua tôi Lê Chiêu Thống mọp đầu rước giặc vào nhà để bảo hộ chiếc“ngai vàng”nô lệ mục nát, mang tội mãi quốc cầu vinh, đắc tội với lịch sử dân tộc.
Bài Thơ Dựng Mùa Xuân Chiến Thắng; một thiên hùng ca hiển hách vô tiền khoán hậu của Quang Trung còn phảng phất đâu đây trong lòng dân tộc Việt.

                                                                           Cờ Quang Trung soi sáng khắp lòng dân,
                                                                                 Họ sắm tết bằng cung tên, dáo mác.
       Vui biết mấy cái ngày ra đất Bắc,
      Bọn giặc Thanh còn nghiêng ngã say sưa.

                 Lính canh đồn, gác lũy vẫn lơ mơ,
                Quân ta tiến ào, ào như thác lũ.
           Tướng lĩnh giặc tái xanh như chàm đổ,
Chạy cuống cuồng không mãnh giáp,thanh gương

    Thây ngổn ngang chất đống ở ven đường,
                Máu lênh láng rữa Nhị Hà vẫn đục.
                Sầm Nghị Đống treo đầu vì tũi nhục,
          Xác quân thù trôi dạt Thái Bình Dương.
         
Chiếm Thăng Long ghi trang sử quật cường,
   Dân tộc Việt dựng mùa xuân chiến thắng.
     
     B.- Bài học lịch sử tái diễn & cao trào yêu nước :
       Lịch sử đang tái diễn; bọn thái thú chóp bu bắc bộ phủ (CSHN) phường mãi quốc cầu vinh, phản bội tổ quốc, chống lại dân tộc. Chúng mọp đầu quay lại ôm chân giặc Tàu (bọn bành trướng CS Bắc Kinh) để quan thầy bảo hộ đồ đảng độc tài, độc ác tiếp tục thống trị dân tộc. Quả thật; bè lũ thái thú bán nước, chúng muối mặt vội quên lũ giặc bành trướng Bắc Kinh đã xua 20 sư đoàn tràn qua biên giới, xâm lăng 9 tỉnh phía Bắc VN, gây cuộc chiến đẩm máu tàn khốc nhất vào năm 1979 (lúc ấy; sau khi nhuộm đỏ miển Nam, hung thần TBT/CĐ Lê Duẫn ôm chân Nga phản Tàu, Duẫn gã con gái cho con trai TBT cộng đảng Nga Brezhnev, và ký hiệp ước bán nước cho Nga bảo hộ Việt Nam như một tỉnh bang. 
Rồi nhận mệnh lệnh Brezhnev tấn công Campuchea diệt bọn Polbod thân Tàu, nuôi tham vọng nhuộm đỏ Thái Lan). Thì liền bị Đặng Tiểu Bình đánh phủ đầu và lớn tiếng tuyên bố “dạy cho thằng CS đàn em bài học” và nếu cần, "24 tiếng đồng sau sẽ ăn cơm tại Sài Gòn". Sau đó, Hội Đồng Bảo An LHQ buộc các bên phải triệt thoái quân đội. Bọn CS Tàu trong thời gian chiếm đóng, đã di dời tất cả cột mốc, lấn sâu vào biên giới VN hàng ngàn cây số vuông (1,000 Km2) Ải Nam Quan, Thác Bản Gióc của Việt Nam chúng sát nhập vào lãnh thổ Tàu, mà bọn CS Hà Nội ngậm miệng nín thinh. Bài học máu xương sờ sờ còn đó.

        Lũ giặc trong, là đảng CS cường khấu bán nước, chúng dùng máu xương bộ đội (con, em đồng bào), dùng dân tộc làm công cụ phục vụ bè đảng tham nhũng, hút máu đồng bào. Cái chiêu bài “đảng CS là đội tiên phong chuyên chính của giai cấp vô sản” chúng vứt vào sọt rác từ sau khi nhuộm đỏ miền Nam. Chúng nhanh chóng biến thành bè lũ tư bản đỏ (đại gia, trọc phú) sống xa hoa trên sự cùng cực của tầng lớp nhân dân lao động, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, thậm chí những bậc làm cha mẹ phải bán tiết trinh con gái mình đi làm vợ chung cho bọn Tàu và Hàn Quốc. 

Cựu lãnh sự Việt Nam xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ

Inline image 1
Inline image 2
 


Cựu lãnh sự Việt Nam xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ

Vietnam - Dang Xuong Hung
Ông Đặng Xương Hùng, cựu lãnh sự Việt Nam tại Thụy Sĩ. (DR)
Theo hãng tin Pháp AFP hôm nay 03/02/2014, trả lời trong chương trình « Le grand Genève à chaud » của đài truyền hình Léman Bleu tối qua, cựu lãnh sự Việt Nam tại Genève, ông Đặng Xương Hùng cho biết đã nộp đơn xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ.
Ông Đặng Xương Hùng, nguyên lãnh sự Việt Nam tại Genève từ năm 2008 đến 2012, nói rằng ông đã đến Thụy Sĩ hôm 18/10/2013 và đã nộp đơn xin tị nạn chính trị. Với hành động này, ông tố cáo « sự độc tài » của chế độ Hà Nội, đã « đe dọa và cầm tù » các nhà đấu tranh vì dân chủ và nhân quyền. Ông hy vọng quyết định này sẽ khiến một số người khác noi theo.
Cựu lãnh sự từng làm việc tại Bộ Ngoại giao Việt Nam từ năm 1983 và vừa từ bỏ đảng Cộng sản tuyên bố : « Đất nước chúng tôi đã rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện. Tất cả mọi người đều hy vọng sẽ có thay đổi, nhưng mới đây đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục theo đuổi cách cai trị độc tài và chế độ độc đảng. Cuộc khủng hoảng này là toàn diện vì vừa là khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng chính trị, đồng thời còn trong lãnh vực giáo dục và y tế ».
Ông Đặng Xương Hùng đã quyết định hợp tác với phe đối lập Việt Nam, đặc biệt là Ủy ban Thụy Sĩ – Việt Nam (COSUNAM) được thành lập cách đây 25 năm. Tổng thư ký ủy ban này là ông Nguyễn Tăng Lũy cho rằng việc xin tị nạn của ông Đặng Xương Hùng là một « sự kiện đặc biệt », và nói thêm « Phía cuối đường hầm dường như đã cận kề ».
Sự kiện nhà ngoại giao trên xin tị nạn chính trị diễn ra trong lúc Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vào ngày 5/2 tới sẽ xem xét tình hình thực hiện các quyền cơ bản tại Việt Nam nhân cuộc Kiểm điểm Định kỳ Phổ cập (UPR) diễn ra bốn năm một lần.
Images intégrées 1
PHONG TRÀO PHỤ NỮ VIỆT NAM HÀNH ĐỘNG CỨU NƯỚC
LỜI KÊU GỌI ĐẦU NĂM GIÁP NGỌ 2014

Kính Thưa Qúy Tôn trưởng Đồng hương,
Hơn ngàn năm Bắc thuộc, Tiền Nhân Ta vẫn giữ vững được giòng giống Rồng Tiên. 
Gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, người Pháp cuối cùng cũng đã nhận chân ra được tinh thần bất khuất và ý chí quật cường của Dân Tộc Việt Nam trước sự tồn vong của Tổ Quốc.
Từ ngày Cộng Sản cướp chính quyền đã làm xáo trộn tận gốc rể truyền thống văn hóa với mưu đồ triệt tiêu hào khí giữ nước của con dân nước Việt. Bất chấp sĩ diện Quốc gia, bất kể lời khuyên can hay thán oán của đồng bào, Cộng Sản Việt nam vẫn bám theo quan thầy Trung cộng, thần phục "Đại Hán" với sứ mệnh của những tên thái thú để được vinh thân phì gia trên sự đói rách lầm than và tủi nhục của cả Dân Tộc.
Chủ quyền Việt Nam đã bị đánh mất trong tay cộng đảng Việt Nam. Tập đoàn CS Việt Nam đã lộ nguyên hình là một tập đoàn thống trị, một thứ "quân chủ" chuyên chế độc tài phi nhân với cả ba triệu đảng viên là ba triệu vương bá, thay phiên nhau cướp bóc, chia chác lên máu xương và mồ hôi nước mắt của đồng bào, để mặc cho Tàu cộng đổ xô vào Việt Nam tung hoành nghênh ngang như thể mảnh đất Việt Nam của Ông Cha chúng ta, là một quận của “Thiên Triều Đại Hán”.
Trong khi đó tập đoàn cai trị CSVN tiếp tục ra sức khủng bố, đàn áp dã man những tiếng nói đòi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Dân Oan vô tội, ngày càng xiết chặt chế độ công an trị, tiếp tục vi phạm Nhân Quyền một cách man rợ, phi nhân bản, phi Dân tộc.